Nhiệt độ
Đồng Nai nâng chuẩn nước sạch nông thôn
Trong tiến trình xây dựng nông thôn mới gắn với phát triển bền vững, Đồng Nai xác định nước sạch là hạ tầng nền tảng, tác động trực tiếp đến sức khỏe và chất lượng sống. Trên cơ sở nghị quyết của Đảng bộ tỉnh và chính sách của Chính phủ, địa phương đẩy mạnh đầu tư, đồng thời hoàn thiện cơ chế quản lý, vận hành bền vững.
Định hướng cho đầu tư hạ tầng nước sạch nông thôn
Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Đồng Nai lần thứ nhất, nhiệm kỳ 2025 - 2030 đã xác định phát triển đồng bộ hạ tầng kỹ thuật là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, trong đó cấp nước sạch nông thôn được xem là tiêu chí nền tảng trong xây dựng nông thôn mới nâng cao. Theo nghị quyết, tỉnh đặt mục tiêu đến năm 2030 nâng tỷ lệ dân cư nông thôn được sử dụng nước sạch đạt quy chuẩn lên mức cao, thu hẹp khoảng cách tiếp cận hạ tầng giữa khu vực đô thị và nông thôn.

Nhà máy nước Thiện Tân (Đồng Nai). Ảnh Ban Mai
Trên cơ sở đó, việc đầu tư hệ thống cấp nước nông thôn tại Đồng Nai được triển khai đồng bộ theo các quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Theo Quyết định 586/QĐ TTg và Quyết định 1489/QĐ TTg, tỉnh Đồng Nai đang đẩy nhanh tiến độ hàng loạt dự án cấp nước trọng điểm, tập trung vào mở rộng mạng lưới cấp nước tập trung, xây dựng các công trình cấp nước quy mô xã và liên xã, đồng thời tăng cường đấu nối từ các tuyến ống đô thị về khu vực nông thôn.
Thực tiễn giai đoạn 2020 đến 2024 cho thấy những chuyển biến rõ rệt trong tiếp cận nước sạch nông thôn tại Đồng Nai. Tỷ lệ hộ dân nông thôn sử dụng nước sạch theo quy chuẩn tăng từ 80,74% lên 84,69%. Đáng chú ý, tỷ lệ hộ dân sử dụng nước từ các công trình cấp nước tập trung tăng gấp đôi, từ 23,27% lên 51,05%. Kết quả này phản ánh hiệu quả của định hướng đầu tư hạ tầng theo hướng tập trung, từng bước thay thế mô hình khai thác nước phân tán vốn tiềm ẩn nhiều rủi ro về chất lượng.
Tuy nhiên, bức tranh chung vẫn cho thấy sự chênh lệch giữa các khu vực. Tại những địa bàn trước sắp xếp đơn vị hành chính có xuất phát điểm thấp, như khu vực Bình Phước cũ, tỷ lệ hộ dân nông thôn sử dụng nước sạch đạt chuẩn và tỷ lệ tiếp cận nước từ công trình tập trung còn hạn chế. Điều này đã tác động đến tỷ lệ chung toàn tỉnh sau sáp nhập. Tính đến năm 2025, tỷ lệ hộ dân nông thôn được sử dụng nước sạch ước đạt khoảng 79%, trong đó nước từ công trình cấp nước tập trung chiếm 43%.
Để khắc phục sự chênh lệch này, Đồng Nai đã rà soát và bổ sung quy hoạch cấp nước đến năm 2030, tầm nhìn 2050. Quy hoạch bổ sung đã đưa vào danh mục nhiều dự án cấp nước mới cho các xã vùng sâu, vùng xa, đồng thời mở rộng các tuyến đấu nối từ nguồn nước mặt La Ngà và Tân Phú. Đây là cơ sở quan trọng để bảo đảm nguồn nước ổn định, giảm phụ thuộc vào nước ngầm và nâng cao tỷ lệ sử dụng nước sạch đạt chuẩn trong giai đoạn tới.
Bài toán vận hành bền vững hệ thống nước sạch nông thôn Đồng Nai
Cùng với đầu tư hạ tầng, thực tiễn triển khai cho thấy thể chế và chính sách quản lý giữ vai trò quyết định đối với hiệu quả và tính bền vững của hệ thống cấp nước nông thôn. Một trong những khó khăn lớn hiện nay là tỷ lệ đấu nối vào các tuyến ống nhánh còn thấp. Nhiều khu vực dù đã có tuyến ống chính đi qua nhưng doanh nghiệp cấp nước chưa mạnh dạn đầu tư mở rộng do hiệu quả kinh tế chưa bảo đảm, trong khi mật độ dân cư thưa và chi phí đầu tư lớn.

Khi thể chế quản lý, chính sách hỗ trợ và vai trò doanh nghiệp được triển khai đồng bộ, nước sạch nông thôn tại Đồng Nai mới thực sự chuyển sang giai đoạn vận hành bền vững, tạo nền tảng lâu dài cho xây dựng nông thôn mới nâng cao. (Ảnh: Tuệ Mẫn)
Bên cạnh đó, thói quen sử dụng giếng khoan và giếng đào của một bộ phận người dân nông thôn vẫn phổ biến. Việc sử dụng nguồn nước tự khai thác giúp giảm chi phí trước mắt nhưng tiềm ẩn nguy cơ ô nhiễm, ảnh hưởng lâu dài đến sức khỏe cộng đồng và làm giảm hiệu quả khai thác của các công trình cấp nước tập trung. Công tác tuyên truyền thay đổi thói quen sử dụng nước tại nhiều địa phương vẫn là thách thức không nhỏ.
Trong bối cảnh đó, tỉnh Đồng Nai đã ban hành các chính sách hỗ trợ nhằm thúc đẩy xã hội hóa và nâng cao hiệu quả quản lý. Quyết định 26/2015/QĐ UBND và Quyết định 35/2021/QĐ UBND của Ủy ban Nhân dân tỉnh là những cơ sở pháp lý quan trọng, tạo điều kiện hỗ trợ đầu tư hạ tầng, khuyến khích doanh nghiệp tham gia cấp nước nông thôn và từng bước chuyển giao công trình cho các đơn vị có năng lực vận hành chuyên nghiệp.
Theo Phó Chủ tịch UBND tỉnh Đồng Nai Nguyễn Thị Hoàng, bảo đảm nước sạch cho người dân là nhiệm vụ chính trị gắn liền với mục tiêu an sinh xã hội. Quan điểm của tỉnh không dừng lại ở các chỉ tiêu tỷ lệ, mà hướng tới mục tiêu mọi người dân đều được tiếp cận nguồn nước sạch đạt chuẩn, an toàn và ổn định. Do đó, cùng với đầu tư công trình, tỉnh yêu cầu tăng cường quản lý chất lượng nước, giám sát vận hành và từng bước điều chỉnh giá nước theo hướng hài hòa giữa chi phí và khả năng chi trả của người dân.
Thực tiễn cũng cho thấy vai trò ngày càng rõ nét của doanh nghiệp trong mở rộng mạng lưới cấp nước nông thôn. Tại khu vực phía Tây Bắc tỉnh Đồng Nai, Công ty CP Cấp Thoát nước Bình Phước đã nỗ lực bao phủ mạng lưới cấp nước cho khoảng 10 xã, phường với gần 46.000 khách hàng. Bên cạnh các nhà máy hiện có, doanh nghiệp đang triển khai Nhà máy nước Nha Bích, dự kiến giai đoạn 2025 đến 2030 đạt công suất 60.000 m3/ngày đêm và sau năm 2030 nâng lên 180.000 m3/ngày đêm. Đồng thời, dự án nâng cấp Nhà máy nước Phước Long cũng đang được triển khai, với công suất dự kiến đạt 33.000 m3/ ngày đêm trong giai đoạn 2025 đến 2030 và nâng lên hơn 61.000 m3/ ngày đêm sau năm 2030.
Song song với các dự án trọng điểm, doanh nghiệp đang khảo sát và xin chủ trương đầu tư hệ thống cấp nước tại các xã nghèo, nơi có đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống, nhằm mở rộng độ bao phủ và nâng tỷ lệ hộ dân được sử dụng nước sạch. Tuy nhiên, tại các địa phương vùng sâu, vùng xa và vùng đồng bào dân tộc thiểu số, việc tiếp cận nguồn nước sạch vẫn gặp nhiều khó khăn do địa hình phức tạp, dân cư sống thưa thớt và hạ tầng cấp nước chưa được đầu tư đồng bộ. Trong điều kiện đó, nhiều người dân vẫn phải sử dụng nước giếng khoan tập trung hoặc nguồn nước từ các trạm cấp nước quy mô nhỏ, thậm chí tự khai thác giếng khoan hộ gia đình để phục vụ sinh hoạt hằng ngày.
Đây là những giải pháp đáp ứng nhu cầu trước mắt, nhưng nguồn nước tự khai thác tiềm ẩn nguy cơ ô nhiễm và ảnh hưởng lâu dài đến sức khỏe cộng đồng. Do đó, chính quyền địa phương cần có các giải pháp phù hợp với đặc thù từng vùng, như đầu tư các trạm cấp nước quy mô nhỏ, ứng dụng công nghệ lọc nước tiết kiệm hoặc hỗ trợ người dân xây dựng giếng khoan bảo đảm tiêu chuẩn kỹ thuật. Khi thể chế quản lý, chính sách hỗ trợ và vai trò doanh nghiệp được triển khai đồng bộ, nước sạch nông thôn tại Đồng Nai mới thực sự chuyển sang giai đoạn vận hành bền vững, tạo nền tảng lâu dài cho xây dựng nông thôn mới nâng cao.
Trung Kiên
Quy hoạch hai bên sông Tô Lịch: Giải quyết căn bản bài toán môi trường nước
Bình chọn 10 sự kiện nổi bật của ngành Cấp Thoát nước Việt Nam năm 2025
Phát thải khí nhà kính trong hệ thống cấp nước Đồng bằng Sông Cửu Long
Đọc thêm
Quy hoạch hai bên sông Tô Lịch: Giải quyết căn bản bài toán môi trường nước
Sáng 30/12/2025, Sở Quy hoạch - Kiến trúc Hà Nội phối hợp với Viện Quy hoạch Xây dựng Hà Nội tổ chức Hội nghị công bố hai đồ án Quy hoạch chi tiết hai bên bờ tuyến sông Tô Lịch, tỷ lệ 1/500 (đoạn 1 và đoạn 2).
Phát thải khí nhà kính trong hệ thống cấp nước Đồng bằng Sông Cửu Long
Để xác định nguồn phát thải khí nhà kính từ hệ thống cấp nước, nghiên cứu thu thập, tổng hợp, phân tích dữ liệu của các đơn vị cấp nước vùng Đồng bằng sông Cửu Long sau đó tính toán lượng phát thải khí nhà kính và phân tích tiềm năng ứng dụng điện mặt trời cho một trường hợp cụ thể.
Công nghệ Cấp nước mới và ứng dụng ở Việt Nam
Bài báo trình bày các kết quả nghiên cứu của chính tác giả, rà soát các công nghệ Cấp thoát nước mới đã được áp dụng thực tiễn ở Việt Nam và trên thế giới, cũng như tổng hợp các công bố quốc tế và trong nước trong thời gian 10 năm vừa qua.
Bể ngầm lắp ghép: Hướng tiếp cận linh hoạt nhằm giảm thiểu ngập úng đô thị
Trước yêu cầu kiểm soát ngập úng đô thị, bên cạnh các giải pháp mang tính dài hạn, các cơ quan chuyên môn, nhà khoa học và doanh nghiệp đang nghiên cứu, đề xuất nhiều giải pháp thoát nước linh hoạt. Trong đó, mô hình bể ngầm lắp ghép được xem như một cấu phần bổ trợ, góp phần giảm thiểu áp lực cho hệ thống thoát nước đô thị.
Quản lý vận hành hệ thống thoát nước đô thị Hải Phòng: Thực trạng, khó khăn và kiến nghị
Tác động của quá trình đô thị hóa nhanh, biến đổi khí hậu kéo theo tình trạng ngập úng tại đô thị Hải Phòng đặt ra nhiều thách thức cho công tác quản lý, vận hành hệ thống thoát nước, đòi hỏi giải pháp đồng bộ, phù hợp với thực tiễn.
TP. Huế khoanh vùng hạn chế khai thác nước dưới đất để bảo vệ tài nguyên
UBND TP. Huế vừa phê duyệt danh mục và bản đồ phân vùng cấm, vùng hạn chế khai thác nước dưới đất nhằm kiểm soát sụt lún, xâm nhập mặn và suy giảm nguồn nước ngầm. Đây là cơ sở quan trọng để quản lý, cấp phép và sử dụng bền vững tài nguyên nước đô thị.
“Công nghệ AI trong ngành Nước" - Từ quản trị phản ứng sang quản trị chủ động
Trong khuôn khổ Hội nghị thường niên Chi hội Cấp Thoát nước miền Nam 2025, diễn ra tại Vũng Tàu, hội thảo chuyên đề “công nghệ AI trong ngành nước - quản trị, giám sát, điều khiển” đã được tổ chức với sự tham dự của các chuyên gia, nhà khoa học, lãnh đạo, kỹ sư, nhân viên trực tiếp vận hành tại đơn vị .
Kiểm soát ngập úng đô thị: Cần khung pháp lý và chiến lược dài hạn
Ngày 17/12/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (KHKTVN), Tổng hội Xây dựng đã tổ chức hội thảo "Ngập úng đô thị - Thách thức và biện pháp giảm thiểu" nhằm đánh giá toàn diện nguyên nhân, mức độ tác động của ngập úng đô thị; đồng thời đề xuất giải pháp tổng hợp về quy hoạch, kỹ thuật, quản trị và chính sách.
Nghị quyết 254/2025/QH15: Gỡ ba “nút thắt” lớn trong lĩnh vực đất đai
Việc Quốc hội thông qua Nghị quyết số 254/2025/QH15 không chỉ tháo gỡ vướng mắc trong thi hành Luật Đất đai 2024, mà còn khơi thông hàng loạt dự án hạ tầng đang bị ách tắc. Theo đó, Nghị quyết tập trung xử lý ba “nút thắt” then chốt: thu hồi đất, bồi thường, tái định cư và thủ tục hành chính chồng chéo.