Nhiệt độ
Nước là yếu tố cốt lõi trong phát triển ĐBSCL
Sáng 27/9, tại TP.Cần Thơ, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc, cùng các Phó Thủ tướng: Vương Đình Huệ, Trịnh Đình Dũng đã chủ trì phiên toàn thể Hội nghị về phát triển bền vững ĐBSCL, thích ứng với biến đổi khí hậu (BĐKH).
Sáng 27/9, tại TP.Cần Thơ, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc, cùng các Phó Thủ tướng: Vương Đình Huệ, Trịnh Đình Dũng đã chủ trì phiên toàn thể Hội nghị về phát triển bền vững ĐBSCL, thích ứng với biến đổi khí hậu (BĐKH).
Tham dự Hội nghị có Ủy viên Bộ Chính trị - Bí thư Thành ủy TP.HCM Nguyễn Thiện Nhân, lãnh đạo các Ban, Bộ, Ngành Trung ương và lãnh đạo các tỉnh ĐBSCL. Hội nghị đã thu hút hàng trăm nhà khoa học trong và ngoài nước, các tổ chức quốc tế, các đoàn ngoại giao.
Trình bày tại phiên họp toàn thể Hội nghị về phát triển bền vững ĐBSCL thích ứng BĐKH sáng 27/9, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà nhấn mạnh: “Tài nguyên nước là yếu tố cốt lõi, trung tâm, làm cơ sở xuyên suốt cho việc hoạch định chiến lược, chính sách, quy hoạch phát triển vùng Đồng bằng sông Cửu Long”.
Bộ trưởng Trần Hồng Hà cho biết: trong ngày hôm qua 27/9, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã chủ trì Phiên họp chuyên đề, thảo luận “Tổng quan về thách thức, cơ hội và giải pháp chuyển đổi mô hình phát triển cho ĐBSCL”.

Bộ trưởng Bộ TN&MT Trần Hồng Hà trình bày tại phiên họp
Để có cơ sở cho Thủ tướng Chính phủ xem xét, chỉ đạo những định hướng lớn phát triển bền vững Đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu, sau đây, tôi xin báo cáo Thủ tướng Chính phủ, các Phó Thủ tướng và toàn thể Hội nghị các kết quả tổng hợp trên cơ sở các báo cáo tham luận và thảo luận tại Hội nghị với chủ đề “Đồng bằng sông Cửu Long - Chuyển hoá thách thức thành cơ hội”.
Hội nghị đã tập trung, phân tích đánh giá một cách tổng thể, toàn diện về các nội dung chính như: ĐBSCL - vùng đất độc đáo nhiều thuận lợi, lắm khó khăn; Thực trạng và thách thức; Các cơ hội của ĐBSCL.
3 nhóm thách thức lớn của ĐBSCL
Theo Bộ trưởng Trần Hồng Hà, ĐBSCL đang chịu 3 nhóm thách thức lớn:
Đó là diện tích đất rừng bị suy giảm trong đó diện tích đất rừng ngập mặn trong 50 năm qua đã giảm 80%; việc gia tăng thời vụ và sản xuất nông nghiệp quá sức phục hồi của đất.
Quy hoạch, đầu tư phát triển chưa đồng bộ, thiếu liên kết trong khi Đồng bằng sông Cửu Long là một thể thống nhất, có gắn kết chặt chẽ với vùng thành phố Hồ Chí Minh và tiểu vùng Mê Công.
Khai thác quá mức nước ngầm làm mặt đất sụt lún cùng với nước biển dân làm tăng nguy cơ ngập lụt. Phát triển, bố trí các khu dân cư chưa hợp lý cùng với khai thác bùn, cát và thiếu hụt lượng phù sa, bùn cát bổ sung dẫn đến sạt lở; Hệ sinh thái mất cân bằng, môi trường ô nhiễm, đa dạng sinh học suy giảm; Quản lý nhà nước thừa chồng chéo nhưng thiếu phối hợp; thiếu các cơ chế và quy hoạch tiếp cận theo vùng.
Bên cạnh đó, nhu cầu khai thác, sử dụng nước ở thượng nguồn gia tăng mạnh, làm giảm dòng chảy mùa kiệt, giảm lượng phù sa; Lũ nhỏ cùng với triều cường nước biển dâng làm xâm nhập mặn sâu hơn vào nội vùng; Suy giảm nguồn lợi thuỷ sản, tác động tiêu cực đến thuỷ sinh và đa dạng sinh học của vùng… cũng thách thức đối với khu vực này
Người đứng đầu ngành TN&MT cũng đề cập đến nhóm thách thức mang tính toàn cầu do biến đổi khí hậu như: Nước biển dâng, hạn hán gia tăng về trong khi khả năng chống chịu của đồng bằng còn thấp; Rủi ro do thiên tai, các hiện tượng khí hậu cực đoan (mưa, bão, giông tố, lốc xoáy...) ngày càng khó lường...
Nhiều cơ hội phát triển
Bộ trưởng Trần Hồng Hà phân tích: Từ vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên: đồng bằng lớn nhất, độ phì nhiêu cao, đa dạng về các vùng đất ngập nước, đa dạng sinh học cao, trữ lượng tài nguyên nước ngọt và rừng ngập mặn, có tiềm năng sản xuất nông nghiệp, ngư nghiệp lớn nhất Việt Nam; kết nối tốt với Thành phố Hồ Chí Minh, các nước Đông Nam Á.
Từ văn hoá, xã hội: Vùng có văn minh sông nước trưng; người dân có truyền thống bền gan, sáng tạo, kinh nghiệm và kiến thức bản địa phong phú; Vùng Đồng bằng sông Cửu Long luôn nhận được sự quan tâm đặc biệt của Đảng, Nhà nước trong phát triển sự hợp tác hỗ trợ của các các quốc gia, tổ chức quốc tế...
ĐBSCL cũng có thuận lợi từ chính các thách thức: tăng giá trị kinh tế, đảm bảo sinh kế người dân thông qua cơ hội phát triển các dịch vụ từ hệ sinh thái mặn lợ trong bối cảnh giảm tài nguyên nước ngọt, hệ sinh thái nước ngọt; thúc đẩy phát triển đa dạng sinh học ven biển, mặn lợ, rừng ngập mặn...
Bên cạnh đó, biến đổi khí hậu cũng thúc đẩy thay đổi tư duy nhận thức, chuyển đổi mô hình phát triển mới dựa trên khai thác cạn kiệt tài nguyên sang mô hình thân thiện với tự nhiên, bền vững, chống chịu cao; thúc đẩy hợp tác, tranh thủ hỗ trợ nguồn lực tài chính, chuyển giao công nghệ...
Phát triển ĐBSCL bền vững, an toàn, thịnh vượng
Về tầm nhìn và quan điểm chỉ đạo, theo Bộ trưởng Trần Hồng Hà, ĐBSCL phát triển bền vững, an toàn, thịnh vượng, trên cơ sở phát phù hợp nông nghiệp hàng hoá lớn chất lượng cao, kết hợp với dịch vụ, du lịch sinh thái, công nghiệp; có cơ sở hạ tầng được quy hoạch, phát triển theo hướng chủ động, thông minh với nước, thích ứng biển đổi khí hậu, đời sống vật chất tinh thần của người dân được nâng cao.
Đến năm 2050, ĐBSCL trở thành vùng có trình độ phát triển khá so với cả nước, có trình độ tổ chức xã hội tiên tiến; độ che phủ rừng đạt trên 5% (so với 4.3% hiện nay), các hệ sinh thái tự nhiên quan trọng được bảo tồn.
Mạng lưới kết cấu hạ tầng được xây dựng đồng bộ, hiện đại. Hệ thống giao thông đường bộ, đường thủy được phát triển đồng bộ, kết nối trong vùng, liên vùng. Hạ tầng thông tin và truyền thông, mạng lưới cấp điện, cấp nước, thoát nước được xây dựng đồng bộ. Hệ thống các cơ sở văn hoá, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, y tế và thể dục - thể thao ở mức cao so với cả nước; kinh tế phát triển năng động và hiệu quả với cơ cấu kinh tế phù hợp và năng động.
Hệ thống đô thị hiện đại được xây dựng và phân bố hợp lý tại các tiểu vùng; Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng cao; cộng đồng gắn kết hài hoà và thân thiện, an ninh chínhtrị giữ vững, quốc phòng được đảm bảo…
Cần thay đổi nhận thức vùng ĐBSCL như một thể thống nhất
Bộ trưởng Trần Hồng Hà đề xuất về quan điểm chỉ đạo đối với khu vực ĐBSCL. Cụ thể: Một là, cần thay đổi nhận thức vùng Đồng bằng sông Cửu Long như một thể thống nhất; quá trình chuyển đổi mô hình phát triển phải được xem xét trong tổng thể chung của Đồng bằng, trong mối liên kết chặt chẽ với vùng Thành phố Hồ Chí Minh và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, trong Tiểu vùng sông Mê Công.
Hai là, phải lấy tài nguyên nước là yếu tố cốt lõi, trung tâm, làm cơ sở xuyên suốt cho việc hoạch định chiến lược, chính sách, quy hoạch phát triển vùng. Tài nguyên nước phải được quản lý tổng hợp trên toàn lưu vực và theo lưu vực. Coi nước lợ và nước mặn là nguồn tài nguyên, bên cạnh nguồn tài nguyên nước ngọt.
Ba là, chuyển đổi mô hình phải dựa trên hệ sinh thái, phù hợp với quy luật tự nhiên; phải kết hợp giữa công nghệ tiên tiến, hiện đại với tri thức, kinh nghiệm truyền thống bản địa.
Bốn là, quá trình chuyển đổi cần có tầm nhìn dài hạn, ưu tiên cho thích ứng với biến đổi khí hậu nhưng cũng phải tận dụng các cơ hội để phát triển kinh tế các-bon thấp, kinh tế xanh, bảo vệ hệ sinh thái tự nhiên.
Năm là, chuyển đổi mô hình phải đảm bảo tính ổn định, sinh kế của người dân, người dân và doanh nghiệp đóng trung tâm, Nhà nước đóng vai trò định hướng, dẫn dắt.

Toàn cảnh Hội nghị
MỘT SỐ NHIỆM VỤ & GIẢI PHÁP CHIẾN LƯỢC VỚI ĐBSCL
Thứ nhất, rà soát và hoàn thiện đồng bộ, chính sách , chiến lược, quy hoạch
- Thống nhất với đề xuất quy hoạch phân vùng theo 3 vùng sinh thái cùng với các dự án ưu tiên không hối tiếc cho 3 vùng như đề xuất trong Kế hoạch Đồng bằng sông Cửu Long.
- Xây dựng quy hoạch quản lý tổng hợp tài nguyên nước theo lưu vực của Đồng bằng sông Cửu Long.
- Xây dựng quy hoạch sử dụng đất đai đồng bộ; quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội vùng và các quy hoạch ngành, lĩnh vực: du lịch, giao thông, xây dựng, năng lượng phù hợp với quy hoạch quản lý tổng hợp tài nguyên nước.
- Xây dựng mô hình kinh tế phù hợp với tự nhiên, chủ động sống chung với mặn, hạn như từng sống chung với lũ; tạo chuỗi giá trị khép kín, chủ động từ khâu sản xuất giống, bảo quản chế biến và phân phối. Thay đổi tư duy về an ninh lương thực, tập trung sản xuất lúa gạo.
- Bảo tồn và phát triển các giá trị cốt lõi của ĐBSCL, tạo nền tảng phát triển dịch vụ du lịch sinh thái, du lịch sông nước dựa trên thế mạnh từng tiểu vùng cùng với thích ứng và chủ động sống chung với kinh tế nước mặn, nước lợ.
- Phát triển hạ tầng, khu dân cư vùng ngập lũ trên cơ sở tính toán để hạn chế sử dụng cát để san lấp mặt bằng, tạo các hồ chứa lũ theo phương châm chủ động sống chung với lũ; bảo tồn các vùng đất ngập nước để giữ nước.
Thứ hai, đánh giá đầy đủ các tác động đến xã hội, sinh kế người dân, chuẩn bị tốt các điều kiện trong quá trình chuyển đổi.
- Hỗ trợ chuyển giao khoa học công nghệ, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực để người dân tham gia một cách tích cực, chủ động, với vai trò là trung tâm của quá trình chuyển đổi.
- Quan tâm đầu tư hệ thống y tế, giáo dục để sự ổn định và sinh kế của người dân, coi đây là yêu cầu đảm bảo tính bền vững của quá trình chuyển đổi.
Thứ ba, đẩy mạnh bảo vệ môi trường, hệ sinh thái, bảo tồn đa dạng sinh học, giảm phát thải khí nhà kính.
- Quy hoạch và đầu tư các khu xử lý chất thải, nước thải tập trung, hiện đại; đẩy mạnh tái chế, tái sử dụng và sản xuất năng lượng từ rác.
- Rà soát lại quy hoạch phát triển điện lực 2011 - 2021, xem xét chuyển đổi công nghệ đối với các nhà máy nhiệt điện than; phát triển năng lượng tái tạo; chuyển đổi công nghệ để tiết kiêm năng lượng.
- Xây dựng ngành nông nghiệp hữu cơ, phát thải các-bon thấp.
Thứ tư, cơ chế huy động nguồn lực cho quá trình chuyển đổi
- Xây dựng cơ chế huy động nguồn lực, khuyến khích sự tham gia đầu tư của các doanh nghiệp, người dân vào phát triển hạ tầng, kết hợp phát triển du lịch như: cơ chế vay vốn, phát hành trái phiếu, xây dựng chuyển giao (BT), xây dựng vận hành và chuyển giao (BOT)...
- Ưu tiên nguồn vốn cho các công trình có tính kết nối liên vùng, liên tỉnh; phục vụ đa mục tiêu, kết hợp giao thông, thuỷ lợi thông minh nguồn nước, hạn chế tác động bất lợi do biến đổi khí hậu, các thiên tai liên quan đến nước.
- Xem xét, thành lập Quỹ phát triển ĐBSCL để đa dạng hoá nguồn lực cho bảo đảm an ninh tài nguyên nước.
Thứ năm, nghiên cứu khoa học công nghệ
- Nghiên cứu xây dựng đề án với tầm nhìn dài hạn giảm nhẹ các tổn thương tác động từ phía biển, kết hợp đồng bộ giữa giao thông, thuỷ lợi, các kết cấu hạ tầng thích ứng với biến đổi khí hậu, đề xuất các giải pháp công trình cứng (xây đê bao…) và các giải pháp mềm (trồng rừng ngập mặn…).
- Triển khai chương trình nghiên cứu khoa học công nghệ, trong đó tập trung nghiên cứu, đánh giá, nhận diện và lượng giá đầy đủ tài nguyên thiên nhiên của ĐBSCL.
- Xây dựng các giải pháp khoa học, kỹ thuật phục vụ phát triển bền vững ĐBSCL.
Thứ sáu, tăng cường năng lực quan trắc, giám sát, cảnh báo, dự báo và hoàn thiện, khai thác, sử dụng cơ sở dữ liệu tích hợp về ĐBSCL.
- Đầu tư nâng cấp và hiện đại hoá hệ thống quan trắc, giám sát, cảnh báo và dự báo về tài nguyên và môi trường bao gồm: môi trường, biển đảo, tài nguyên nước, khí tượng thuỷ văn, biến đổi khí hậu, sụt lún, xói lở, bồi đắp vùng đồng bằng sông Cửu Long.
- Xây dựng, hoàn thiện, tích hợp hệ thống cơ sở dữ liệu liên ngành và thành lập Trung tâm dữ liệu vùng đồng bằng sông Cửu Long, kết nối với cơ sở dữ liệu của Uỷ hội sông Mê Công quốc tế; khai thác, sử dụng có hiệu quả phục vụ đa mục tiêu, chia sẻ và tổ chức công bố cho cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan.
Thứ bẩy, đẩy mạnh hợp tác quốc tế
- Xây dựng cơ chế hợp tác với các quốc gia và tổ chức quốc tế, đặc biệt là Cao uỷ Đồng bằng Hà Lan, tăng cường kết nối, nghiên cứu, trao đổi kinh nghiệm với các đối tác quốc tế về phát triển bền vững đồng bằng.
- Tranh thủ sự hỗ trợ về công nghệ, kỹ thuật của các nước phát triển cho phát triển vùng đồng bằng thích ứng với biến đổi khí hậu.
- Cùng các quốc gia trong lưu vực có cơ chế, cơ sở pháp lý trong chia sẻ lợi ích, bảo tồn giá trị cốt lõi của sông Mê Công.
- Tăng cường đàm phán, kêu gọi sự hợp tác của các quốc gia và các tổ chức quốc tế, các nước trong Tiểu vùng sông Mê Công, Myanma và Trung Quốc hỗ trợ phát triển bền vững vùng đồng bằng sông Cửu Long.
- Thúc đẩy và điều phối các hoạt động trên phương diện ngoại giao nhà nước, ngoại giao nhân dân trong vận động các đối tác phát triển, các tổ chức quốc tế, vùng và cộng đồng có liên quan ủng hộ các giải pháp sử dụng hiệu quả và bền vững nguồn nước sông Mê Công.
- Đánh giá toàn diện và sửa đổi, bổ sung Hiệp định Mê Công 1995 theo hướng tăng cường hợp tác giữa các quốc gia trong lưu vực sông Mê Công, bảo đảm hài hoà lợi ích giữa các bên liên quan trong quản lý, khai thác và sử dụng tài nguyên nước sông Mê Công.
Thứ tám, hoàn thiện cơ chế điều phối phát triển vùng
Nghiên cứu cơ chế điều phối vùng hiệu quả huy động được sự tham gia của đại diện các Bộ, ngành và địa phương trong vùng, một số nhà khoa học để tham mưu cho Thủ tướng Chính phủ về các quyết sách về phát triển bền vững vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Thứ chín, tăng cường công tác truyền thông để tăng cường nhận thức cho người dân vùng Đồng bằng sông Cửu Long về những cơ hội từ quá trình chuyển đổi mô hình nhằm phát triển bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu.
Tác giả bài viết: Việt Hùng
Nguồn tin: Monre.gov.vn
Tổ chức chấm chọn Giải thưởng Đồ án Tốt nghiệp xuất sắc ngành Cấp Thoát nước năm 2025
Hội Cấp Thoát nước Việt nam trao quà ủng hộ tới Công ty TNHH MTV Cấp nước Cao Bằng
HueWACO nỗ lực cao nhất đảm bảo cấp nước an toàn, liên tục trong mùa mưa lũ
Mở rộng cơ hội ứng dụng công nghệ ngành Nước của Hungary vào ngành Nước tại Việt Nam
Hành trình trao yêu thương tới vùng lũ: gần 1 tỷ đồng tiếp tục được trao cho các Hội viên
Đọc thêm
Tổ chức chấm chọn Giải thưởng Đồ án Tốt nghiệp xuất sắc ngành Cấp Thoát nước năm 2025
Sáng 28/10/2025, Trung tâm đào tạo Bồi dưỡng ngành Nước Việt Nam (thuộc Hội Cấp Thoát nước Việt Nam) đã tổ chức buổi chấm chọn Giải thưởng Đồ án Tốt nghiệp xuất sắc cho sinh viên theo học ngành Cấp Thoát nước.
Hội Cấp Thoát nước Việt nam trao quà ủng hộ tới Công ty TNHH MTV Cấp nước Cao Bằng
Do ảnh hưởng liên tiếp của cơn bão số 10 và số 11, tỉnh Cao Bằng chịu thiệt hại nặng nề về cơ sở hạ tầng, đặc biệt là hệ thống cấp nước đô thị. Mưa lớn kéo dài gây sạt lở, hư hỏng nhiều tuyến ống, nước tràn ngập trạm bơm, ảnh hưởng trực tiếp đến việc cung cấp nước sạch cho người dân trên địa bàn.
HueWACO nỗ lực cao nhất đảm bảo cấp nước an toàn, liên tục trong mùa mưa lũ
Trước đợt mưa lũ kéo dài từ ngày 26/10/2025 - một trong những đợt lũ lớn nhất tại thành phố Huế trong những năm gần đây, Công ty CP Cấp nước Huế (HueWACO) đã chủ động xây dựng và triển khai kế hoạch đảm bảo cấp nước an toàn mùa mưa lũ, với sự chuẩn bị khoa học, kỹ lưỡng ngay từ đầu mùa.
Các tỉnh miền Trung huy động tổng lực tuyến đầu ứng phó mưa lũ, sạt lở
Mưa to xảy ra ở một số tỉnh miền Trung như Huế, Đà Nẵng, Quảng Ngãi; lũ các sông lên nhanh, gây ngập nhiều nơi, có nơi sâu nhất 1,5m; đường sắt, đường bộ qua một số nơi tê liệt. Các địa phương ở miền Trung đã huy động cả hệ thống chính trị ở mức cao nhất để ứng phó mưa lũ và sạt lở.
Hành trình trao yêu thương tới vùng lũ: gần 1 tỷ đồng tiếp tục được trao cho các Hội viên
Tiếp nối hành trình trao yêu thương tới các doanh nghiệp ngành Nước bị thiệt hại nặng nề do bão lũ, ngày 25/10, lãnh đạo Hội Cấp Thoát nước Việt Nam (VWSA) cùng đại diện Chi hội Cấp Thoát nước miền Bắc đã có chuyến thăm và trao quà ủng hộ tại Nghệ An, Hà Tĩnh, Lạng Sơn và Yên Bái.
Thủ đô Hà Nội tiếp tục là địa điểm tổ chức Tuần lễ ngành Nước Việt Nam 2026
Thủ đô Hà Nội sẽ tiếp tục là địa điểm tổ chức Tuần lễ ngành Nước Việt Nam - Vietnam Water Week 2026. Sự kiện quan trọng và có ý nghĩa này của ngành Nước sẽ diễn ra từ ngày 16 đến 18/9/2026 tại Cung Văn hóa Lao động Hữu nghị Việt Xô.
Nhà máy nước thô liên vùng đầu tiên ở miền Tây, bước đi tiên phong ứng phó hạn, mặn
Dự án Nhà máy nước thô liên vùng Đồng Tháp – Tây Ninh – Vĩnh Long chính thức khởi công ngày 24/10, với tổng vốn đầu tư hơn 1.820 tỷ đồng. Công trình được kỳ vọng bảo đảm nguồn nước ngọt ổn định, phục vụ sinh hoạt, sản xuất cho hơn 2 triệu người dân vùng hạ lưu sông Tiền.
Ngành Nhựa Việt Nam – Khát vọng vươn tầm trong kỷ nguyên xanh
Với chủ đề "Khát vọng vươn tầm", lễ kỷ niệm 35 năm thành lập Hiệp hội Nhựa Việt Nam không chỉ là dấu mốc tri ân mà còn là tuyên ngôn về tầm nhìn phát triển mới gắn với trách nhiệm môi trường, đổi mới công nghệ và hội nhập quốc tế. Ngành Nhựa đang góp phần tạo nên diện mạo công nghiệp xanh, hiện đại và bền vững.
Dòng nước nghĩa tình chảy qua mùa lũ
Trước thiệt hại nặng nề do bão lũ gây ra tại các tỉnh miền Trung và miền núi phía Bắc, cộng đồng ngành Nước Việt Nam đã chung tay quyên góp gần 1,5 tỷ đồng, thể hiện tinh thần đoàn kết, sẻ chia và trách nhiệm xã hội sâu sắc với mong muốn giúp đỡ các doanh nghiệp sớm khắc phục hậu quả, ổn định cấp nước.