Nhiệt độ
Nghiên cứu dùng tảo hạt hoạt tính xử lý nước thải hiệu quả
Tảo hạt hoạt tính có thể xử lý nước thải hiệu quả và tiết kiệm chi phí so với công nghệ xử lý bùn hoạt tính hiện nay, theo các nhà nghiên cứu Việt Nam.

Công nghệ này liên quan đến việc cấy vi tảo và vi khuẩn từ bùn hoạt tính giúp thu hồi chất dinh dưỡng natri (N) và phốt pho (P), và biến loại vi sinh này từ mối đe dọa thành một nguồn nhiên liệu thân thiện với môi trường.
Hiện nay, khoảng 90% nước thải đô thị ở Việt Nam chưa xử lý triệt để được xả thẳng ra môi trường. Nếu tình trạng này tiếp diễn, chỉ 20 đến 30 năm nữa, nguồn nước mặt sẽ bị ô nhiễm nghiêm trọng và thế hệ tương lai sẽ không đủ nguồn nước sạch để dùng, theo ông Nguyễn Quang Huân, Phó Chủ tịch Hội Nước sạch và Môi trường Việt Nam.
Tuy nhiên, một trong những bất cập lớn nhất là thiếu nguồn vốn do chưa thu hút được đầu tư tư nhân, đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực này, theo ông Nguyễn Thành Lam - chuyên viên chính Vụ Quản lý Chất thải, Tổng Cục Môi trường, báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam đưa tin hồi tháng 4/2022.
Mới đây, nhóm nghiên cứu Bird fighter, dưới sự hướng dẫn của PGS.TS. Bùi Xuân Thành, Trưởng phòng Thí nghiệm Trọng điểm Đại học Quốc gia Công nghệ Xử lý Chất thải Bậc cao – Đại học Bách khoa – Đại học Quốc gia TPHCM, đã và đang phát triển một loại công nghệ từ tảo hạt hoạt tính để xử lý nước thải, thay thế những công nghệ xử lý sinh học tốn kém hiện nay.
Nước thải sẽ được xử lý hiệu quả với chi phí thấp, đồng thời công nghệ này tạo ra sinh khối có thể sử dụng để sản xuất các sản phẩm sinh học hữu ích.
Hướng đi mới từ ý tưởng cũ
Chia sẻ với Tạp chí Cấp Thoát nước Việt Nam, chị Nguyễn Ngọc Kim Qui, thành viên nhóm nghiên cứu, cho biết ý tưởng để phát triển loại vi tảo hoạt tính này được kế thừa và phát triển từ những nghiên cứu về tảo và bùn hoạt tính trong xử lý nước thải trước đây của nhóm và của các nhà khoa học trên thế giới.

Tảo hạt khi đặt trên tay
Chị Qui nói sinh khối tảo có nhiều tiềm năng trong lĩnh vực năng lượng xanh của tương lai, tuy nhiên do tảo có khối lượng riêng nhẹ hơn nước, không lắng được trong nước nên tảo rất khó thu hoạch.
Vì vậy, Bird fighter đã đồng nuôi cấy vi tảo chủng Chlorella và vi khuẩn từ bùn hoạt tính dùng trong xử lý nuớc thải.
Hai loại vi sinh vật này, tuy có các đặc tính trái ngược nhau nhưng hoàn toàn có thể bổ trợ và cộng sinh trong môi trường nước thải, hỗ trợ cho việc thu hoạch sinh khối tảo thuận lợi. Ngoài ra, khi ở dạng hạt, sinh khối tảo sẽ càng dễ thu hoạch hơn do hạt có kết cấu đặc, nặng, và chứa nhiều sinh khối tảo có giá trị.
Như vậy, nuôi cấy tảo hoạt tính từ nước thải có thể giảm thiểu tất cả các chi phí hóa chất bổ sung N và P, các chất dinh dưỡng đắt tiền khác cũng như nguồn cung nước sạch cần thiết để nuôi cấy quy mô lớn như phương pháp nuôi cấy vi tảo truyền thống. Cụ thể, tảo hạt sẽ dùng dinh dưỡng N, P và các chất vi lượng có sẵn trong nước thải mỗi ngày.
Sử dụng vi tảo trong xử lý nước thải là một phương pháp giúp thu hồi chất dinh dưỡng N, P, và biến loại vi sinh này từ một mối đe dọa thành một nguồn nhiên liệu thân thiện với môi trường.

Tảo hạt nhìn bằng kính hiển vi, độ phóng đại 10 lần
Dù vậy, vi tảo có kích thước và khối lượng riêng rất nhỏ so với nước nên tốc độ lắng sẽ rất chậm, ảnh hưởng đến việc thu hoạch sinh khối. Ngược lại, do được kết hợp giữa tảo và vi khuẩn, tảo hạt có kích thước phân bố từ 100 – 1.000 μm, có thể lắng > 90% sinh khối sau 3 phút, do đó không cần tốn kém chi phí cho hóa chất keo tụ để thu hồi sinh khối, nhóm nghiên cứu chia sẻ với Tạp chí Cấp Thoát nước Việt Nam.
Được biết, để đến được thành quả này, nhóm nghiên cứu đã trải qua không ít khó khăn.
Theo chị Qui, đây là hệ thống sử dụng vi sinh vật nên rất nhạy cảm với các thay đổi của môi trường, cần được kiểm soát hàng ngày và để đạt được kết quả thì cần phải trải qua một thời gian nghiên cứu khá dài.
Đặc biệt, khó khăn nhất phải kể đến giai đoạn dịch COVID-19 và những ngày lễ tết, cả nhóm phải thay phiên nhau lên phòng thí nghiệm hoặc đem cả hệ thống về nhà để vận hành, mất rất nhiều thời gian và công sức.
Ngoài ra, đây cũng là một hướng nghiên cứu rất mới nên còn ít tài liệu tham khảo liên quan. Tuy nhiên, khi thành phẩm là hạt vi tảo được tạo ra thành công, cả nhóm cảm thấy công sức bỏ ra được đền đáp xứng đáng.
Triển vọng ứng dụng
Chị Qui cho biết, để triển khai nuôi cấy tảo hạt hoạt tính, cần sử dụng các bể quang sinh học kín tạo bằng vật liệu trong suốt để tăng cường khả năng tiếp xúc ánh sáng của vi tảo. Ngoài ra, cần dùng hệ thống đảo trộn có tốc độ phù hợp để khuấy trộn và tạo lực cắt trong hệ thống.
Nhằm giảm lượng nhiệt phát sinh trong hệ thống, các nhà khoa học sử dụng đèn led ánh sáng trắng. Mô hình nuôi cấy tảo hạt hoạt tính cũng bao gồm hệ thống thiết bị tự động để kiểm soát quá trình vận hành, nạp và xả nước thải, cũng như thu hồi sinh khối tảo hạt.
Đặc biệt, nếu các hệ thống đang nuôi tảo thông thường muốn chuyển sang nuôi tảo hạt, chỉ cần sử dụng một lượng nhỏ “tảo hạt” giống để nuôi cây trong một thời gian ngắn.

Tảo hạt nhìn bằng mắt thường
Hiện, nghiên cứu mới chỉ dừng ở phòng thí nghiệm, chưa triển khai rộng rãi ngoài thực tế. Tuy nhiên, tiềm năng của phương pháp mới này là rất lớn: Hiệu quả loại bỏ chất hữu cơ trung bình của tảo hạt luôn trên 90%, trong khi đó hiệu quả loại bỏ Nitơ lên đến 94%.
Hệ thống xử lý nước thải bằng phương pháp sinh học thông thường cần sử dụng nhiều hệ thống với các chế độ vận hành khác nhau nhằm nuôi cấy nhiều giống vi sinh khác nhau để có thể xử lý toàn bộ các chất ô nhiễm.
Trong khi đó, sử dụng tảo hạt hoạt tính sẽ chỉ cần đến một hệ thống bể quang sinh học duy nhất với ưu điểm nhỏ gọn, tiện lợi, giảm thiểu chi phí xây dựng.
Tảo hạt có hàm lượng vi tảo cao, chứa nhiều hợp chất có tính năng thương mại hóa đặc trưng như lipid, tinh bột, N, P.
Vì vậy, sinh khối tảo hoạt tính thu hồi được có thể ứng dụng làm nhiên liệu sinh học, cụ thể là sản xuất dầu diesel sinh học, nhựa sinh học hoặc làm phân bón sinh học - một giải pháp đơn giản và không tốn kém, giúp giảm thiểu các vấn nạn ô nhiễm môi trường do hóa chất trong canh tác nông nghiệp.
Đặc biệt, Chlorella (giống tảo chính trong sản phẩm tảo hạt hoạt tính) là một trong những chủng vi tảo có chứa hàm lượng polymer cao nhất tính đến hiện tại, có nhiều tiềm năng trong việc sản xuất nhựa sinh học.
Bước tiếp theo, nhóm nghiên cứu sẽ nghiên cứu chuyên sâu hơn, thử nghiệm các điều kiện vận hành khác nhau nhằm tăng cường các đặc tính hữu ích và tiềm năng ứng dụng tảo hạt trong thực tế.
Cụ thể, nhóm sẽ thay đổi các thông số nghiên cứu để tăng khả năng xử lý nước thải của tảo hạt. Ngoài ra, tăng hàm lượng các hợp chất quý của tảo để áp dụng nguồn sinh khối này vào các ngành công nghiệp xanh.
Trong tương lai, nhóm nghiên cứu hy vọng sản phẩm tảo hạt sẽ thu hút được sự quan tâm của các doanh nghiệp trong các lĩnh vực liên quan như nhựa, xăng và phân bón sinh học, đáp ứng sự thay đổi về xu hướng của người tiêu dùng ngày càng chuộng các sản phẩm sinh học thân thiện với môi trường.
Quản lý vận hành hệ thống thoát nước đô thị Hải Phòng: Thực trạng, khó khăn và kiến nghị
TP. Huế khoanh vùng hạn chế khai thác nước dưới đất để bảo vệ tài nguyên
Lai Châu: Vận động chính sách hỗ trợ phụ nữ tiếp cận nước sạch, vệ sinh
“Công nghệ AI trong ngành Nước" - Từ quản trị phản ứng sang quản trị chủ động
Đọc thêm
TP. Huế khoanh vùng hạn chế khai thác nước dưới đất để bảo vệ tài nguyên
UBND TP. Huế vừa phê duyệt danh mục và bản đồ phân vùng cấm, vùng hạn chế khai thác nước dưới đất nhằm kiểm soát sụt lún, xâm nhập mặn và suy giảm nguồn nước ngầm. Đây là cơ sở quan trọng để quản lý, cấp phép và sử dụng bền vững tài nguyên nước đô thị.
“Công nghệ AI trong ngành Nước" - Từ quản trị phản ứng sang quản trị chủ động
Trong khuôn khổ Hội nghị thường niên Chi hội Cấp Thoát nước miền Nam 2025, diễn ra tại Vũng Tàu, hội thảo chuyên đề “công nghệ AI trong ngành nước - quản trị, giám sát, điều khiển” đã được tổ chức với sự tham dự của các chuyên gia, nhà khoa học, lãnh đạo, kỹ sư, nhân viên trực tiếp vận hành tại đơn vị .
Một số bất cập trong cơ chế, chính sách lĩnh vực cấp nước nhìn từ thực tiễn doanh nghiệp
Trong những năm qua, hệ thống chính sách, pháp luật liên quan đến lĩnh vực cấp thoát nước đã từng bước được bổ sung, điều chỉnh . Tuy nhiên, từ thực tiễn cho thấy cơ chế, chính sách đối với lĩnh vực cấp nước hiện nay vẫn còn một số bất cập, thiếu thống nhất, ảnh hưởng đến hiệu quả đầu tư và vận hành của doanh nghiệp.
Những con sông dài nhất Việt Nam thích ứng với biến đổi khí hậu
Những con sông dài nhất Việt Nam luôn được đánh giá là trụ cột sinh thái - kinh tế của mỗi quốc gia. Tuy nhiên trước những diễn biến cực đoan của khí hậu, các con sông này đang đối diện với tình trạng suy giảm dòng chảy, gây mất cân bằng an ninh nguồn nước.
Mở rộng cấp nước sạch nông thôn Cà Mau hướng tới phát triển bền vững
Trước thực trạng thiếu nước sinh hoạt kéo dài tại nhiều địa phương, Trung tâm Nước sạch và Vệ sinh môi trường nông thôn tỉnh Cà Mau đã triển khai đồng bộ các giải pháp mở rộng mạng lưới cấp nước. Qua đó, từng bước nâng cao chất lượng sống người dân nông thôn, hướng tới mục tiêu phát triển bền vững giai đoạn 2026 - 2030.
AquaTech và bài toán kiểm soát chất lượng nước trong nuôi tôm ĐBSCL
Đoạt Giải Nhất Lobal Youth Summit 2025, mô hình AquaTech không chỉ là thành tích nổi bật của sinh viên Trường Đại học Trà Vinh mà còn mở ra một hướng tiếp cận mới cho nuôi tôm bền vững. Giá trị cốt lõi của giải pháp nằm ở kiểm soát chất lượng nước bằng công nghệ tuần hoàn và dữ liệu.
VWSA làm việc với JST (Nhật Bản) về dự án phát triển hệ thống cấp nước thích ứng ô nhiễm
Chiều ngày 09/12/2025, tại Văn phòng Hội Cấp Thoát nước Việt Nam (VWSA), Lãnh đạo VWSA đã có buổi làm việc với đại diện Đoàn Cơ quan Khoa học Công nghệ của Nhật Bản (JST) và các đại diện của Dự án "Phát triển hệ thống Cấp nước thích ứng với nguồn nước ô nhiễm".
Nhà máy nước Thủ Đức: gần sáu thập kỷ cung cấp nước sạch cho Thành phố Hồ Chí Minh
Gần sáu thập kỷ gắn bó với tiến trình phát triển của đô thị lớn nhất cả nước, Nhà máy nước Thủ Đức (thuộc Tổng Công ty Cấp nước Sài Gòn – SAWACO) đã khẳng định vị trí then chốt trong hệ thống cấp nước Thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM).
Đồng Nai tăng tốc hoàn thiện hệ thống nước sạch nông thôn đến năm 2030
Tính đến cuối năm 2025, tỷ lệ hộ dân nông thôn tỉnh Đồng Nai sử dụng nước sạch đạt 79%, trong đó 43% lấy từ công trình cấp nước tập trung và 36% từ các giải pháp hộ gia đình.