
Nhiệt độ
Nhiệt độ
Xin chào, User name
Tài khoản của tôi Hoạt động bình luận Tin đã lưu Tin đã xem Tin đã bình luận Đăng xuấtTheo bộ phim tài liệu The True Cost (2015), thế giới đang tiêu thụ khoảng 80 tỷ sản phẩm quần áo mới mỗi năm, nhiều hơn 400% so với mức tiêu thụ của hai thập kỷ trước. Ngành thời trang đã vô tình trở thành một trong những tác nhân lớn nhất gây nên sự mất cân bằng sinh thái bởi những ảnh hưởng tiêu cực tới môi trường. Theo báo cáo của Ủy ban Kinh tế Liên Hiệp Quốc Châu Âu (UNECE), ngành công nghiệp thời trang sử dụng tới 93 tỉ mét khối nước trong một năm vì cần đến 2.700 lít nước để sản xuất một chiếc áo thun và 7.000 lít nước để tạo ra một cái quần jeans. Việc giặt quần áo thải ra 500.000 tấn sợi nhỏ vào đại dương mỗi năm, tương đương với 50 tỉ chai nhựa. Chính vì vậy, nhiều nhà thiết kế đã có những sáng tạo hết sức mới lạ để giữ cho ngành công nghiệp này ngày càng “xanh” và “bền vững” hơn. Từ bã mía, tơ sen, vỏ hàu, … tất cả đều được tận dụng để phát triển một xu hướng thời trang mới. Nước cũng không phải là ngoại lệ. Vegan Designer Bags, một trang web chuyên giới thiệu về các mẫu túi làm từ nguyên liệu “chay” đã đưa tin về Malai. Đây là sản phẩm da thuần chay làm từ nước dừa, được ra mắt như một chất liệu thay thế cho các loại vải được cho là có hại đối với môi trường hiện nay.
NGÀNH THỜI TRANG VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG ĐẾN MÔI TRƯỜNG
Thuộc top 10 ngành công nghiệp gây ô nhiễm nặng nhất trên thế giới, sản xuất quần áo nói riêng và ngành thời trang nói chung đem đến nhiều hậu quả nặng nề cho thiên nhiên hơn chúng ta vẫn nghĩ. Theo Liên hợp quốc, ngành thời trang gây ra 10% lượng khí thải carbon toàn cầu, hơn cả lượng khí thải từ tất cả các chuyến bay quốc tế và hoạt động vận chuyển hàng hải cộng lại. Ví dụ như Trung Quốc, nơi được coi là công xưởng của thế giới do lợi thế dân số đông và chi phí nhân công rẻ, phần lớn các nhà máy may mặc chủ yếu sử dụng năng lượng nhiệt từ than đá. Việc vận tải quần áo cũng tạo thêm khí CO2 do đa phần các sản phẩm được vận chuyển bằng đường thủy và các tàu thuyền sử dụng loại dầu bunker, một nhiên liệu hóa thạch chứa nhiều sulfur gấp 1.800 lần so với nhiên liệu chạy ô tô.
Quy mô ngày càng bành trướng của ngành thời trang đã khiến cho ngành này có sức tàn phá khủng khiếp đối với môi trường sống. Hiện nay, tình hình ô nhiễm môi trường do ngành dệt may gây ra, đặc biệt là ô nhiễm nước ở nhiều khu vực vẫn chưa được kiểm soát một cách chặt chẽ. Hầu hết các doanh nghiệp vẫn chỉ áp dụng các biện pháp xử lý nước thải thô sơ, thậm chí nhiều nhà máy may mặc còn xả thẳng các hóa chất chưa qua xử lý xuống sông, gây ra tình trạng ô nhiễm ở một nhóm các sông lớn trên thế giới. Các chất hóa học và kim loại nặng khiến cho nhiều đoạn sông lớn của các sông như Citarum ở Indonesia hay Châu Giang ở Trung Quốc ô nhiễm đến mức cá và các loại sinh vật khác không sống được. Không chỉ vậy, tình trạng ô nhiễm này còn ảnh hưởng cư dân của các vùng lân cận hay những người phụ thuộc nước sinh hoạt từ sông, hồ đó. Tỷ lệ người bị ung thư và mắc các bệnh khác cao hơn hẳn khi họ sống gần các sông ô nhiễm, đặc biệt là gần nguồn nước xả thải từ các nhà máy may mặc.
Trong sản xuất các loại da thông thường, toàn bộ vòng đời sản xuất da, từ chăn nuôi bò đến lột da và thuộc da ban đầu đến quá trình hoàn thiện, đều có những tác động tiêu cực đến môi trường. Hơn 400 loại hóa chất khác nhau được sử dụng trong chế biến da, hầu hết trong số đó là chất độc hại đối với môi trường như formaldehyde, dẫn xuất nhựa than đá, dầu và thuốc nhuộm. Ngoài ra, da cần một lượng nước và năng lượng đáng kể để sản xuất. Đây cũng là một trong những lí do mà da thuần chay ra đời.
“THỜI TRANG BỀN VỮNG” LÊN NGÔI
Nếu như Fast Fashion (tạm dịch: thời trang nhanh, chỉ những quần áo có thời gian sản xuất nhanh, giá thành rẻ và cũng nhanh “hết mốt”) được xem là ông vua trong việc gây nghiện với các tín đồ mua sắm, thì Sustainable fashion (thời trang bền vững) đang ngày một khẳng định vị trí của mình trong lòng giới mộ điệu. Đây được coi là xu thế của thời đại mới, đặc biệt trong bối cảnh ô nhiễm môi trường ngày càng được chú trọng. Năm 2019, Adidas bắt đầu xu hướng nguyên liệu tái chế cho sneakers với dự án kết hợp cùng Parley để cho ra những mẫu giày làm từ rác thải biển. Nike cũng không nằm ngoài xu hướng khi cho ra mắt những thiết kế mang chất liệu tái chế từ da thừa với chất lượng không khác gì da cao cấp nhưng nhẹ hơn nhờ công nghệ Flyleather, sử dụng ít hơn 90% nước trong quá trình sản xuất và cắt giảm đến 80% tác hại của khí CO2 lên trái đất.
SỰ RA ĐỜI CỦA MALAI
Cùng với sự thay đổi trong tư duy cũng như nhận thức của những con người đang gắn bó với ngành thời trang, các vật liệu mới dần được sáng chế để thay thế cho các loại vải sợi tổng hợp có hại tới môi trường. Ở Ấn Độ, người ta thậm chí còn sử dụng cả nước dừa để tạo ra một loại da nhân tạo có tên gọi là Malai. Sản phẩm này được thiết kế bởi Malai Bio Materials. Đây là một studio nghiên cứu vật liệu có trụ sở tại Kerala, một bang của Ấn Độ, đồng sáng lập bởi một nhà nghiên cứu vật liệu tên là Zuzana Gombosova đến từ Slovakia và nhà thiết kế sản phẩm Susmith Suseelan đến từ Ấn Độ.
Trong bài phỏng vấn với trang Vegan Designer Bags, nhà nghiên cứu Zuzana chia sẻ rằng: “Cả hai chúng tôi đều cảm thấy ngột ngạt khi phải tiếp xúc với chất liệu nhựa hàng ngày. Chúng tôi đều có xu hướng làm việc với các vật liệu lành mạnh, tự nhiên và sử dụng trong các ứng dụng phù hợp. Cellulose vi khuẩn nói riêng đã là chủ đề nghiên cứu của tôi trong vài năm vào thời điểm chúng tôi gặp nhau”. Ngay sau khi gặp gỡ, hai nhà thiết kế đã bắt đầu thử nghiệm với cellulose vi khuẩn trong nước dừa. Và một thời gian ngắn sau đó, vào tháng Một năm 2017, họ bắt đầu cuộc hành trình mang tên Malai. Tháng Mười Một năm 2018, các sản phẩm làm từ Malai chính thức có mặt trên kệ trưng bày của Hội chợ thiết kế London.
Da thuần chay Malai được tạo ra bằng cách thu thập cùi dừa và nước dừa từ những người nông dân địa phương hoặc bị bỏ đi tại các nhà máy. Nước dừa sau đó được khử trùng sẽ biến thành một chất dinh dưỡng hoàn toàn tự nhiên để nuôi cấy vi khuẩn. Thông thường, khoảng 4000l nước dừa có thể sản xuất ra 320m2 vật liệu Malai , đây cũng là lượng nước dừa mà một cơ sở chế biến dừa nhỏ có thể sản xuất ra trong một ngày.
Nước dừa sau quá trình lên men sẽ tạo ra một tấm thạch cellulose, sau đó được thu hoạch, tinh chế và cuối cùng được gia cố bằng sợi tự nhiên, nhựa và cao su. Quá trình tinh chỉnh này làm cho vật liệu trở nên linh hoạt và mềm dẻo hơn. Vật liệu tạo ra là các tấm da phẳng với nhiều độ dày và kết cấu khác nhau, hoặc được đúc liền mạch thành các cấu trúc 3D. Bước cuối cùng trong quy trình sản xuất Malai là làm khô bằng không khí và làm mềm bằng cách áp dụng xử lý kháng nước nhẹ nhàng. Toàn bộ quy trình được thực hiện mà không sử dụng bất kỳ lớp phủ nhựa hoặc thành phần tổng hợp nào. Ngoài dừa, studio này cũng sử dụng thân chuối, xơ dứa (xơ sisal) và xơ gai dầu trong các sản phẩm của họ.
Ưu điểm của da thuần chay là được làm hữu cơ nên hoàn toàn không gây kích ứng với người sử dụng. Vật liệu này có trải qua các quy trình sản xuất giống như da động vật như may, khâu, hoặc cắt laser. Các sản phẩm Malai có độ bền trong khoảng từ 4-8 năm và có thể được sử dụng như phân bón khi chúng đã hết vòng đời.
Cũng trong bài phỏng vấn cùng Vegan Designer Bags, bà Zuzana - người đã nghiên cứu ra Malai cho biết: "Chúng tôi vẫn đang tinh chỉnh một số đặc tính của Malai như sức mạnh, độ bền và độ hoàn thiện, do đó, điều quan trọng là chúng tôi phải nhận được phản hồi tốt từ các nhà sản xuất và nhà sản xuất đã thử nó. Hiện tại, thách thức lớn nhất là có được vòng tài trợ tiếp theo cho phép chúng tôi mở rộng quy mô sản xuất và thiết lập chuỗi cung ứng phát triển tốt."
Sản phẩm da thuần chay làm từ nước dừa đã được trưng bày trên các sàn diễn thời trang và triển lãm công nghiệp lớn. Đây đồng thời là cơ hội để Malai phát triển thành thương hiệu và trở thành nhãn hàng được Tổ chức Bảo vệ Quyền lợi Động vật PETA chấp thuận. Bên cạnh đó, studio thiết kế cũng đã giành được một số giải thưởng như Elle Décor Design Award, Grand Czech Design, và Circular Design Challenge. Các sản phẩm làm từ Malai hiện cũng được phân phối và cung cấp cho các thương hiệu như Riti ở Ấn Độ, Ethical Living ở Anh và Lucky Nelly ở Đức.
Chiều 23/4/2025, Lãnh đạo Hội Cấp Thoát nước Việt Nam (VWSA) đã có buổi tiếp và làm việc với đại diện Văn phòng Kinh tế & Thương mại Israel tại Việt Nam. Tại cuộc họp, phía Israel bày tỏ mong muốn tìm hiểu thị trường và kết nối với các doanh nghiệp cấp thoát nước của Việt Nam.
Trung tuần tháng 3/2025, đoàn công tác Hội Cấp Thoát nước Việt Nam (VWSA) đã có chuyến công tác và tham dự Triển lãm Công nghệ xử lý nước tại Hàn Quốc (Water Korea 2025).
Theo nghiên cứu công bố trên tạp chí Environmental Research Letters, dòng hải lưu mạnh nhất thế giới có thể suy giảm tới 20% vào năm 2050 nếu lượng khí thải tiếp tục ở mức cao, làm gia tăng tốc độ tan băng ở Nam Cực và mực nước biển dâng.
Theo CNN, đảo quốc Nauru ở Thái Bình Dương đã quyết định khởi xướng sáng kiến "hộ chiếu vàng" với mục đích gây quỹ tài trợ ứng phó với biến đổi khí hậu.
Liên Hợp Quốc công bố 2025 là Năm quốc tế bảo tồn sông băng, kèm theo tuyên bố Ngày nước thế giới năm nay có chủ đề Bảo tồn các dòng sông băng. Đây là dịp nâng cao nhận thức toàn cầu về vai trò của sông băng, tuyết và băng đối với khí hậu và chu trình thủy văn, cũng như tác động kinh tế, xã hội, môi trường.
Theo thống kê, tổng công suất các nhà máy cấp nước ở Việt Nam đạt 13,2 triệu m3/ngđ, tỷ lệ dân cư đô thị được cung cấp nước sạch 94%; tỷ lệ thất thoát, thất thu nước sạch 15,5%. Với nhu cầu xử lý nước ngày càng tăng, dư địa đầu tư vào thị trường ngành Nước của Việt Nam còn lớn, nhất là trong lĩnh vực công nghệ.
Sau một thập kỷ xây dựng, dự án "siêu cống" Thames Tideway của London cuối cùng đã hoàn thành. Hệ thống cống ngầm quy mô lớn này, với chi phí đầu tư đạt 5 tỷ bảng Anh (tương đương 6,3 tỷ USD), hứa hẹn sẽ cách mạng hóa hệ thống xử lý chất thải của thành phố.
Hội Cấp thoát nước Việt Nam (VWSA) và Hội nước Hungary vừa có buổi gặp gỡ, bàn bạc kế hoạch hợp tác trong thời gian tới.
Được sự giới thiệu của Đại sứ quán Bỉ, Hội Cấp Thoát nước Việt Nam (VWSA) đã có buổi làm việc với doanh nghiệp ngành Nước đến từ Bỉ nhằm kết nối và thúc đẩy quan hệ hợp tác kinh tế giữa doanh nghiệp hai nước.