Nhiệt độ
Việt Nam tìm cách tăng tỷ lệ xử lý chất thải chăn nuôi
Đầu năm 2023, Công an huyện Nam Sách (tỉnh Hải Dương) đã xử phạt hành chính hai hộ chăn nuôi gia súc do xả chất thải gây ô nhiễm nghiêm trọng môi trường nước.

Kết quả phân tích mẫu nước thải thu được từ hai hộ chăn nuôi trên đều có ba thông số vượt quá quy chuẩn kỹ thuật về nước thải, Cổng Thông tin điện tử Công an tỉnh Hải Dương đưa tin ngày 29/1/2023.
Theo đó, Công an huyện Nam Sách đã ra quyết định xử phạt với số tiền 1,2 triệu đồng mỗi hộ và buộc hai hộ thực hiện các biện pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường.
Trường hợp vi phạm ở huyện Nam Sách nằm trong rất nhiều ví dụ về tình trạng ô nhiễm môi trường trong chăn nuôi đang ngày càng trở nên nghiêm trọng do một số lượng lớn các hộ chăn nuôi quy mô nhỏ, công tác quản lý và áp dụng công nghệ ở Việt Nam chưa phù hợp.
Tới cuối 2022, toàn quốc có gần 30 triệu con lợn, 9 triệu gia súc và trên 530 triệu gia cầm, số liệu thống kê của Cục Chăn nuôi (Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, NN&PTNT) cho hay.
Lượng phát thải từ chăn nuôi hàng năm rất lớn, gồm 62,2 triệu tấn chất thải rắn và 303,5 triệu tấn chất thải lỏng, Tiến sĩ Võ Trọng Thành, đại diện Cục Chăn nuôi, công bố tại Diễn đàn “Kinh tế tuần hoàn trong ngành chăn nuôi: Cơ hội và thách thức” tổ chức trực tuyến ngày 21/3/2023 vừa qua.
Tại nông hộ, 72% lượng chất thải chăn nuôi đã được xử lý, còn ở trang trại tỷ lệ này là 95%, ông Thành nêu trong bài phát biểu.
Các trang trại sử dụng quá nhiều nước trong mô hình chăn nuôi, đồng thời công tác quản lý môi trường chưa đáp ứng được nhu cầu của thực tế sản xuất là các nguyên nhân khiến ô nhiễm môi trường từ chăn nuôi vẫn chưa được xử lý, TS. Nguyễn Thế Hinh, đại diện Ban Quản lý Các dự án Nông nghiệp (Bộ NN&PTNT) nhận định.
Thực tế cho thấy, các trang trại chăn nuôi được xây dựng theo quy trình sử dụng ít nước mang lại hiệu quả cao hơn trong việc thu gom chất thải của động vật để làm phân bón hữu cơ. Chất thải rắn từ các trang trại nuôi gà hầu như được tiêu thụ hết cho mục đích trồng rau, hoa, cây cảnh. Chất thải từ chăn nuôi gia súc sử dụng ít nước cũng dễ dàng thu gom để phục vụ trồng cây công nghiệp.
Bên cạnh đó, những mô hình chăn nuôi lợn thịt hay bò sữa sử dụng nhiều nước theo quy trình thâm canh quy mô lớn mới là nguyên nhân chính gây ô nhiễm môi trường do chất thải lỏng từ các trang trại này không thể thu gom nên chỉ còn cách xả trực tiếp hoặc gián tiếp xuống nguồn nước.

Một nguyên nhân khác dẫn tới tình trạng ô nhiễm là do công tác quản lý môi trường hiện nay chưa đáp ứng được với nhu cầu của thực tế sản xuất, ông Nguyễn Thế Hinh viết trong một báo cáo đăng tại Tạp chí Môi trường.
Các quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về nước thải chăn nuôi theo QCVN 40:2011/BTNMT trước kia và QCVN 62-MT:2016/BTNMT hiện nay đều quá cao so với khả năng ứng dụng công nghệ xử lý môi trường hiện tại, dẫn đến hầu hết các trang trại đều không thể đáp ứng do không có công nghệ xử lý môi trường chăn nuôi hiệu quả.
Một trong những giải pháp được người dân sử dụng trong những năm trở lại đây là công nghệ khí sinh học. Ứng dụng của công nghệ này giúp người dân xử lý nguồn chất thải trong chăn nuôi, tránh các bệnh truyền nhiễm, đồng thời tạo nguồn khí đốt phục vụ sinh hoạt cho các hộ gia đình.
Tuy nhiên, việc triển khai công nghệ này trong thực tế còn gặp rất nhiều khó khăn, bất cập.
Đối với các công trình khí sinh học quy mô nhỏ, hiện tượng quá tải công suất xử lý (quy mô chăn nuôi thay đổi thường xuyên trong khi dung tích của hầm là cố định) dẫn tới khí ga thừa không sử dụng hết, xả trực tiếp ra môi trường là nguyên nhân phổ biến gây ô nhiễm môi trường.
Đối với chăn nuôi quy mô trang trại, công nghệ khí sinh học chưa thực sự đem lại lợi ích về kinh tế nên hầu như các công trình này không được chủ đầu tư quan tâm vận hành.
Khó khăn trong việc đáp ứng quy định xả thải cùng với tâm lý ưu tiên phát triển kinh tế nên các biện pháp xử lý môi trường của các trang trại còn mang tính chất đối phó, việc quản lý và xử phạt của cơ quan chức năng còn nhẹ, chưa đủ sức răn đe dẫn tới chưa thể giải quyết dứt điểm tình trạng ô nhiễm.
Các đề xuất
Đến năm 2050 Việt Nam sẽ trở thành một trong những nước có nền nông nghiệp hàng đầu thế giới với ngành công nghiệp chế biến hiện đại, hiệu quả và thân thiện với môi trường, theo tầm nhìn trong “Chiến lược phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến 2050” được Chính phủ phê duyệt tháng 1/2022.
Riêng về phát triển chăn nuôi tới 2030, mục tiêu là “90% lượng chất thải từ chăn nuôi được thu gom, xử lý, tận dụng làm phân bón hữu cơ; bón, tưới cho cây trồng” cũng như tận dụng cho các mục đích hiệu quả khác, ông Võ Trọng Thành nêu trong diễn đàn trực tuyến hôm 21/3.

Để đạt được những mục tiêu này, ông Thành đề xuất nhóm 4 giải pháp chính nhằm từng bước tháo gỡ những khó khăn, bất cập hiện tại để thúc đẩy kinh tế tuần hoàn trong chăn nuôi, gắn liền với công tác bảo vệ vệ sinh môi trường.
Một là, hoàn thiện cơ chế chính sách về công tác tái chế, tái sử dụng chất thải chăn nuôi trong nông nghiệp; Khuyến khích người dân sử dụng phân bón hữu cơ, phân bón vi sinh từng bước thay thế cho phân bón hóa học; Xây dựng chính sách về giá điện sản xuất từ khí sinh học để các cơ sở chăn nuôi lớn khai thác hiệu quả nguồn chất thải dư thừa, bán ra thị trường.
Hai là, thúc đẩy phát triển khoa học công nghệ ứng dụng trong chăn nuôi; Tăng cường chuyển giao các tiến bộ kỹ thuật, công nghệ mới trong xử lý chất thải chăn nuôi, phụ phẩm nông nghiệp theo hướng tuần hoàn; Khuyến khích nghiên cứu phát triển các công nghệ sản xuất phân bón hữu cơ mới để đảm bảo phát triển mô hình chăn nuôi theo hướng kinh tế tuần hoàn, nâng cao hiệu quả sản xuất trong nông nghiệp.
Ba là, đào tạo phát triển nguồn nhân lực; Xây dựng các nội dung, chương trình đào tạo liên quan đến công nghệ chế biến phụ phẩm, phân bón hữu cơ trong chăn nuôi; Đồng thời, lồng ghép các chương trình khuyến nông, tập huấn kỹ thuật tái chế, tái sử dụng phụ phẩm, chất thải trong chăn nuôi nhằm nâng cao ý thức của cộng đồng.
Bốn là, nghiên cứu, triển khai các dự án ưu tiên, quy mô lớn nhằm sản xuất phân bón hữu cơ, khí sinh học từ chất thải chăn nuôi lợn/bò/gà đáp ứng nhu cầu đầu vào của thị trường trong nước và quốc tế.
Bảo đảm cấp nước an toàn và giảm thất thoát nước sạch: Hơn một thập kỷ triển khai đồng bộ
Dòng chảy trách nhiệm: ngành Nước Việt Nam đồng hành cùng cộng đồng vượt thiên tai
Khánh Hòa: Đa số cơ sở cấp nước cơ bản đáp ứng yêu cầu về chất lượng nước sinh hoạt
Quản lý vận hành hệ thống thoát nước đô thị Hải Phòng: Thực trạng, khó khăn và kiến nghị
TP. Huế khoanh vùng hạn chế khai thác nước dưới đất để bảo vệ tài nguyên
Lai Châu: Vận động chính sách hỗ trợ phụ nữ tiếp cận nước sạch, vệ sinh
Đọc thêm
Bể ngầm lắp ghép: Hướng tiếp cận linh hoạt nhằm giảm thiểu ngập úng đô thị
Trước yêu cầu kiểm soát ngập úng đô thị, bên cạnh các giải pháp mang tính dài hạn, các cơ quan chuyên môn, nhà khoa học và doanh nghiệp đang nghiên cứu, đề xuất nhiều giải pháp thoát nước linh hoạt. Trong đó, mô hình bể ngầm lắp ghép được xem như một cấu phần bổ trợ, góp phần giảm thiểu áp lực cho hệ thống thoát nước đô thị.
Quản lý vận hành hệ thống thoát nước đô thị Hải Phòng: Thực trạng, khó khăn và kiến nghị
Tác động của quá trình đô thị hóa nhanh, biến đổi khí hậu kéo theo tình trạng ngập úng tại đô thị Hải Phòng đặt ra nhiều thách thức cho công tác quản lý, vận hành hệ thống thoát nước, đòi hỏi giải pháp đồng bộ, phù hợp với thực tiễn.
TP. Huế khoanh vùng hạn chế khai thác nước dưới đất để bảo vệ tài nguyên
UBND TP. Huế vừa phê duyệt danh mục và bản đồ phân vùng cấm, vùng hạn chế khai thác nước dưới đất nhằm kiểm soát sụt lún, xâm nhập mặn và suy giảm nguồn nước ngầm. Đây là cơ sở quan trọng để quản lý, cấp phép và sử dụng bền vững tài nguyên nước đô thị.
“Công nghệ AI trong ngành Nước" - Từ quản trị phản ứng sang quản trị chủ động
Trong khuôn khổ Hội nghị thường niên Chi hội Cấp Thoát nước miền Nam 2025, diễn ra tại Vũng Tàu, hội thảo chuyên đề “công nghệ AI trong ngành nước - quản trị, giám sát, điều khiển” đã được tổ chức với sự tham dự của các chuyên gia, nhà khoa học, lãnh đạo, kỹ sư, nhân viên trực tiếp vận hành tại đơn vị .
Kiểm soát ngập úng đô thị: Cần khung pháp lý và chiến lược dài hạn
Ngày 17/12/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (KHKTVN), Tổng hội Xây dựng đã tổ chức hội thảo "Ngập úng đô thị - Thách thức và biện pháp giảm thiểu" nhằm đánh giá toàn diện nguyên nhân, mức độ tác động của ngập úng đô thị; đồng thời đề xuất giải pháp tổng hợp về quy hoạch, kỹ thuật, quản trị và chính sách.
Nghị quyết 254/2025/QH15: Gỡ ba “nút thắt” lớn trong lĩnh vực đất đai
Việc Quốc hội thông qua Nghị quyết số 254/2025/QH15 không chỉ tháo gỡ vướng mắc trong thi hành Luật Đất đai 2024, mà còn khơi thông hàng loạt dự án hạ tầng đang bị ách tắc. Theo đó, Nghị quyết tập trung xử lý ba “nút thắt” then chốt: thu hồi đất, bồi thường, tái định cư và thủ tục hành chính chồng chéo.
Một số bất cập trong cơ chế, chính sách lĩnh vực cấp nước nhìn từ thực tiễn doanh nghiệp
Trong những năm qua, hệ thống chính sách, pháp luật liên quan đến lĩnh vực cấp thoát nước đã từng bước được bổ sung, điều chỉnh . Tuy nhiên, từ thực tiễn cho thấy cơ chế, chính sách đối với lĩnh vực cấp nước hiện nay vẫn còn một số bất cập, thiếu thống nhất, ảnh hưởng đến hiệu quả đầu tư và vận hành của doanh nghiệp.
Mở rộng cấp nước sạch nông thôn Cà Mau hướng tới phát triển bền vững
Trước thực trạng thiếu nước sinh hoạt kéo dài tại nhiều địa phương, Trung tâm Nước sạch và Vệ sinh môi trường nông thôn tỉnh Cà Mau đã triển khai đồng bộ các giải pháp mở rộng mạng lưới cấp nước. Qua đó, từng bước nâng cao chất lượng sống người dân nông thôn, hướng tới mục tiêu phát triển bền vững giai đoạn 2026 - 2030.
AquaTech và bài toán kiểm soát chất lượng nước trong nuôi tôm ĐBSCL
Đoạt Giải Nhất Lobal Youth Summit 2025, mô hình AquaTech không chỉ là thành tích nổi bật của sinh viên Trường Đại học Trà Vinh mà còn mở ra một hướng tiếp cận mới cho nuôi tôm bền vững. Giá trị cốt lõi của giải pháp nằm ở kiểm soát chất lượng nước bằng công nghệ tuần hoàn và dữ liệu.