Nhiệt độ
Sống chung với hạn, mặn: Cần một quy hoạch nguồn nước cho ĐBSCL
Giữa mùa hạn, mặn khốc liệt nhất, cần tìm ra giải pháp giữ nước ngọt cho ĐBSCL.
Trong khi hạn mặn theo các cửa sông xâm nhập sâu vào nội đồng, địa bàn tỉnh Bến Tre nước mặn bủa vây, len lỏi khắp các con sông. PGS.TS Nguyễn Hiếu Trung, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Biến đổi khí hậu (Dragon), ĐH Cần Thơ đã trao đổi với Báo NNVN về một số giải pháp ứng phó mùa hạn mặn.

PGS.TS Nguyễn Hiếu Trung. Ảnh: HĐ.
Gần đây, chúng ta dễ dàng nhận thấy tần suất những năm hạn cực đoan gia tăng. Có hai lý do chính của hiện tượng này. Thứ nhất, là do tác động của biến đổi khí hậu (BĐKH) làm mùa khô dài ra, còn mùa mưa ngắn lại với lượng mưa tập trung trên cả lưu vực sông Mekong.
Trong mùa mưa, lượng mưa tập trung tạo thành dòng chảy lớn trên lưu vực ngày càng ít rừng hơn, làm lượng nước thoát xuống nhanh, nên đỉnh lũ sẽ dâng cao hơn nhưng thời gian lũ lại ngắn hơn. Do đó, cùng với việc mùa khô đến sớm, lượng nước thượng nguồn về cũng ít khiến xâm nhập mặn cũng vô sớm hơn bình thường.
Lý do thứ hai, là việc các nước thượng nguồn đã và đang tích nước nhiều hơn vào cuối mùa mưa, nên nước không thể vào được hồ Tonle Sap của Campuchia. Đây là nguồn nước chính của ĐBSCL trong mùa khô, nên lượng nước về đồng bằng càng ít hơn bình thường làm cho xâm nhập mặn trầm trọng hơn.
Chính những lý do trên cho thấy, ĐBSCL trong tương lai sẽ tiếp tục chịu 2 áp lực, đó là ở những năm mưa tập trung và mưa nhiều thì sẽ có nguy cơ ngập lũ cao hơn, còn những năm mưa ít, lũ kết thúc sớm như năm nay, thì sẽ bị khô hạn và xâm nhập mặn nặng nề.

Nước ngọt đang thật sự quý giá. Làm thế nào và bằng cách nào giữ, trữ nước ngọt, thưa ông?
ĐBSCL có các nguồn nước chính, gồm nước ngọt thì có nước sông Mekong, nước mưa tại chỗ, dưới nước ngọt là nước mặn lợ và nước thải.
Trong điều khiện khan hiếm nguồn nước, chúng ta cần sử dụng một cách hiệu quả các nguồn nước này. Chúng ta cần thay đổi quan điểm là chỉ nước ngọt mới là tài nguyên. Nước mặn lợ và ngay cả nước thải, miễn làm ra được sản phẩm và an toàn cũng nên được xem xét sử dụng.
Về nguồn nước ngọt, thực ra xét về tổng lượng thì nước sông và nước mưa của vùng ĐBSCL rất dồi dào, nhưng vì lượng nước này lại vào đồng bằng trong một thời đoạn ngắn và dư thừa nên chúng ta phải tìm mọi cách để thoát hết ra biển.
Do đó, với tình hình hiện nay, chúng ta cần phải có chiến lược để tích trữ nguồn nước này, nhất là vào gần cuối mùa lũ, khi mà mực nước lũ đã giảm nhưng chất lượng nước tốt nhất để có thể dùng vào mùa khô.
Ở các khu vực trữ nước cho sản xuất đó có thể kết hợp nuôi trồng thủy sản, thủy canh và du lịch sinh thái. Đối với sản xuất nông nghiệp, nên ưu tiên các mô hình canh tác tiết kiệm nước, giảm vụ lúa vào mùa khô, chuyển sang các loại cây trồng có giá trị kinh tế cao nhưng sử dụng ít nước hơn.
Nước mưa là nguồn nước có chất lượng cao hơn nước sông rất nhiều nên ưu tiên trữ dùng cho sinh hoạt, đã có các nghiên cứu cho thấy nếu có cách thu, lưu trữ và xử lý đúng kỹ thuật thì chất lượng nước rất tốt, với giá thành thấp.
Nguồn nước ngầm có chất lượng cao nhất, tuy nhiên khả năng hồi phục rất thấp cũng như nếu khai thác quá mức sẽ làm đất bị lún sụt, nên cần phải hạn chế tối đa nguồn nước này. Chỉ dùng nước ngầm cho cấp nước sinh hoạt trong điều kiện bất khả kháng, khi không có các nguồn nước khác.
Về xâm nhập mặn, nếu xét chi tiết sẽ thấy rằng ở một số vùng vẫn có thể duy trì một vụ lúa mùa mưa, còn mùa khô, mặn xâm nhập thì có thể nuôi trồng thủy sản nước lợ hay mặn. Không nhất thiết phải nâng cao đê ngăn mặn, xây dựng thêm cống để làm nhiều vụ lúa.
Các chi phí này nên được đầu tư cho hạ tầng giao thông, kho trữ lạnh, tìm kiếm thị trường cho các sản phẩm. Nông nghiệp công nghệ cao với khả năng điều khiển môi trường đất và nước có thể là giải pháp cho các khu vực bị xâm nhập mặn. Các hệ thống sẽ giúp sử dụng nước tuần hoàn nên ít chịp áp lực nguồn nước bên ngoài hơn.
Mặt khác, một lưu ý quan trọng trong việc trữ nước, đó là kiểm soát nghiêm ngặt nguồn thải vào ao, hồ, và kênh trữ nước. Do đó, Nhà nước cần có chế tài mạnh hơn ở các khu vực xung quanh các ao, hồ, kênh trữ nước.
Đặc biệt, nên hạn chế các nguồn phát thải ô nhiễm không khí vì sẽ ảnh hưởng đến chất lượng nước mưa. Nên có cơ chế khuyến khích sản xuất tuần hoàn, giảm thiểu phát thải rác và nước thải, hay tái sử dụng nước thải sẽ làm giảm tác động của các hoạt động sản xuất liên quan đến nguồn nước.

Nếu tận dụng nguồn nước ngọt với trữ lượng lớn từ mùa mưa, lũ để tích nước thì đâu là biện pháp khả thi có thể áp dụng và sớm được triển khai ngay? Về lâu dài, giải pháp căn cơ ứng phó với hạn mặn cho gần 20 triệu cư dân ĐBSCL là gì, thưa ông?
Đối với sản xuất, một mặt chuyển đổi và áp dụng các biện pháp tiết kiệm nước, một mặt đa dạng hóa việc sử dụng các nguồn nước như tôi đã nêu ở trên.
Đối với các nhà máy cấp nước sinh hoạt, trước mắt cần có nghiên cứu đánh giá các khu vực trũng, các kênh mương, ao hồ có tiềm năng trữ nước, từ đó tính toán được phần trăm mà nguồn này có thể đáp ứng được trong thời gian xâm nhậm mặn căng thẳng, qua đó có các phương án khai thác nguồn nước phù hợp theo các khung thời gian khác nhau.
Ví dụ, tùy theo vị trí của nhà máy, xem xét thời gian nào trong năm sử dụng nguồn nước sông, thời gian nào sử dụng nước trong các khu trữ, và thời gian nào bắt buộc phải dùng nước ngầm.
Đối với các khu trữ nước phục vụ cấp nước sinh hoạt, cần đặc biệt lưu ý các nguồn thải xung quanh cũng như biện pháp hạn chế nguồn thải ô nhiễm vào khu vực trữ. Ở vùng nông thôn, nơi hệ thống cấp nước sạch còn hạn chế, thì khuyến khích người dân trữ nước sông để tưới tiêu và sử dụng nước mưa để sinh hoạt, hạn chế khai thác nước ngầm.
Về lâu dài, cần có một quy hoạch chiến lược về nguồn nước cho ĐBSCL trên quan điểm cân bằng tối ưu giữa nguồn nước và sử dụng nước. Trong đó, cần tối ưu hóa hiệu quả sử dụng nước (mặn, ngọt) và bảo vệ nguồn nước ngầm. Chọn lựa ngay các mô hình sản xuất có giá trị kinh tế nhưng có hiệu suất sử dụng nước cao hơn lúa.
Việc xây dựng mạng lưới cấp nguồn nước ngọt từ thượng nguồn xuống các tỉnh ven biển cũng là một giải pháp lâu dài. Tuy nhiên, phải tính kỹ giá thành cũng như các rủi ro trong quá trình vận hành hệ thống. Song song đó cần quy hoạch dài hạn hệ thống hồ trữ nước phân tán ở các địa phương, đặc biệt là vùng ven biển và Bán đảo Cà Mau, nơi rất xa nguồn nước sông.
Thời gian qua, chúng ta thường giải quyết bài toán ngập lũ và hạn mặn riêng lẻ. Nghĩa là chúng ta có giải pháp kiểm soát ngập riêng với giải pháp kiểm soát mặn. Theo tôi, trong thời gian tới cần có tiếp cận mới, trong đó tận dụng được nguồn nước mặt rất dồi dào trong khoảng thời gian giao thoa giữa mùa mưa và mùa khô ở các vùng giao thoa mặn ngọt hiện nay.
Đây là hướng đi cần thiết để có thể giải quyết đồng thời hai vấn đề cấp nước chính là nước sản xuất và nước sinh hoạt của ĐBSCL.
Xin cám ơn ông
| Biến đổi khí hậu và tương lai là hàng loạt đập thủy điện vùng thượng nguồn đang dựng lên, việc chủ động nguồn nước phục vụ sản xuất, sinh hoạt, theo ông có cần xem xét lại việc phân vùng quy hoạch cây trồng khi ranh giới hạn mặn đang lấn sâu vào đất liền? Đây là bài toán tổng hợp, đa mục tiêu, cần tiếp cận theo hướng sử dụng tối ưu nguồn tài nguyên đất và nước, đồng thời đáp ứng tính khả thi về kinh tế, xã hội và bền vững về môi trường. Do đó, xem xét phân vùng lại các khu vực dễ tổn thương trước thách thức nguồn nước như đã nêu trên rất cần thiết. Các vùng dễ có khả năng xâm nhập mặn cao, cần chuyển đổi qua các mô hình sản xuất phù hợp với điều kiện hạn mặn, tuy nhiên để các giải pháp trên có thể thành công, chúng ta cần xây dựng một hệ thống cảnh báo kịp thời và tin cậy. Kinh nghiệm hạn mặn năm nay cho thấy khi chúng ta có được thông tin cảnh báo sớm và có những biện pháp phù hợp thì thiệt hại đã giảm hơn rất nhiều so với năm 2016. Người dân cũng cần thực hiện theo các khuyến cáo từ các cơ quan nghiên cứu và các cơ quan quản lý. Ngoài ra, đối với các giải pháp chuyển đổi từ lúa sang cây ăn trái, rau màu, chăn nuôi, nhà nước cần có các chính sách hỗ trợ kịp thời cho người dân và các doanh nghiệp tham gia trong chuỗi giá trị này. Đồng thời có sự nỗ lực của các nhà khoa học tìm ra các giống cây trồng, vật nuôi mới, kỹ thuật canh tác mới để bảo chất lượng sản phẩm đưa ra thị trường với chất lượng cao nhất, qua đó người dân có được lợi nhuận ổn định và cao hơn. |
Theo Báo Nông nghiệp Việt Nam
Sắp ra mắt Báo cáo "Xác định khoảng trống và cơ hội để thúc đẩy bình đẳng giới trong ngành Nước tại Việt Nam"
Kỷ niệm 30 năm thành lập Hiệp hội Môi trường Đô thị và Khu công nghiệp Việt Nam (Vuizea)
Metro - Lợi thế vàng đón làn sóng an cư, hút dòng đầu tư cho Vinhomes Wonder City
Đọc thêm
Sắp ra mắt Báo cáo "Xác định khoảng trống và cơ hội để thúc đẩy bình đẳng giới trong ngành Nước tại Việt Nam"
Tháng 3/2026, tại TP Huế, Hội Cấp Thoát nước Việt Nam (VWSA) và Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) sẽ chính thức công bố Báo cáo “Xác định khoảng trống và cơ hội để thúc đẩy bình đẳng giới trong ngành Nước tại Việt Nam”.
Kiểm soát ngập úng đô thị: Cần khung pháp lý và chiến lược dài hạn
Ngày 17/12/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (KHKTVN), Tổng hội Xây dựng đã tổ chức hội thảo "Ngập úng đô thị - Thách thức và biện pháp giảm thiểu" nhằm đánh giá toàn diện nguyên nhân, mức độ tác động của ngập úng đô thị; đồng thời đề xuất giải pháp tổng hợp về quy hoạch, kỹ thuật, quản trị và chính sách.
Nghị quyết 254/2025/QH15: Gỡ ba “nút thắt” lớn trong lĩnh vực đất đai
Việc Quốc hội thông qua Nghị quyết số 254/2025/QH15 không chỉ tháo gỡ vướng mắc trong thi hành Luật Đất đai 2024, mà còn khơi thông hàng loạt dự án hạ tầng đang bị ách tắc. Theo đó, Nghị quyết tập trung xử lý ba “nút thắt” then chốt: thu hồi đất, bồi thường, tái định cư và thủ tục hành chính chồng chéo.
Một số bất cập trong cơ chế, chính sách lĩnh vực cấp nước nhìn từ thực tiễn doanh nghiệp
Trong những năm qua, hệ thống chính sách, pháp luật liên quan đến lĩnh vực cấp thoát nước đã từng bước được bổ sung, điều chỉnh . Tuy nhiên, từ thực tiễn cho thấy cơ chế, chính sách đối với lĩnh vực cấp nước hiện nay vẫn còn một số bất cập, thiếu thống nhất, ảnh hưởng đến hiệu quả đầu tư và vận hành của doanh nghiệp.
Mở rộng cấp nước sạch nông thôn Cà Mau hướng tới phát triển bền vững
Trước thực trạng thiếu nước sinh hoạt kéo dài tại nhiều địa phương, Trung tâm Nước sạch và Vệ sinh môi trường nông thôn tỉnh Cà Mau đã triển khai đồng bộ các giải pháp mở rộng mạng lưới cấp nước. Qua đó, từng bước nâng cao chất lượng sống người dân nông thôn, hướng tới mục tiêu phát triển bền vững giai đoạn 2026 - 2030.
Hà Nội dự kiến đầu tư gần 5.600 tỷ đồng cho 10 dự án khẩn cấp chống úng ngập
Để kịp thời đáp ứng các yêu cầu phòng, chống thiên tai do mưa bão gây ra, Sở Xây dựng Hà Nội đã tham mưu để Chủ tịch UBND Thành phố Hà Nội ban hành 10 quyết định về Lệnh xây dựng công trình khẩn cấp với tổng mức đầu tư dự kiến là 5.579 tỷ đồng.
Nhà máy nước Thủ Đức: gần sáu thập kỷ cung cấp nước sạch cho Thành phố Hồ Chí Minh
Gần sáu thập kỷ gắn bó với tiến trình phát triển của đô thị lớn nhất cả nước, Nhà máy nước Thủ Đức (thuộc Tổng Công ty Cấp nước Sài Gòn – SAWACO) đã khẳng định vị trí then chốt trong hệ thống cấp nước Thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM).
Đồng Nai tăng tốc hoàn thiện hệ thống nước sạch nông thôn đến năm 2030
Tính đến cuối năm 2025, tỷ lệ hộ dân nông thôn tỉnh Đồng Nai sử dụng nước sạch đạt 79%, trong đó 43% lấy từ công trình cấp nước tập trung và 36% từ các giải pháp hộ gia đình.
Đại hội Chi hội Cấp Thoát nước miền Bắc nhiệm kỳ 2025 - 2028: Đoàn kết - Đổi mới - Chia sẻ - Phát triển
Diễn ra tại Hải Phòng với sự tham dự của hơn 400 đại biểu, Đại hội Chi hội Cấp Thoát nước miền Bắc nhiệm kỳ 2025 - 2028 đã tổng kết đánh giá toàn diện kết quả thực hiện trong nhiệm kỳ vừa qua, đồng thời thảo luận những định hướng chiến lược cho giai đoạn mới.