Nhiệt độ
Nghiên cứu chất lượng nước thải từ một số mỏ than tại Quảng Ninh
Các mỏ của Công ty TNHH MTV 35 (Quang Hanh), Công ty TNHH MTV 618 (Đông Triều), Công ty TNHH MTV 790 (Mông Dương) và 02 mỏ thuộc TKV là Công ty TNHH MTV Than Uông Bí và Công ty Cổ phần Than Hà Lầm (Hạ Long) là các mỏ hầm lò nằm trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.
Kết quả phân tích các mẫu nước thải chưa qua xử lý được lấy tại cửa lò cho thấy tùy thuộc vào từng thời điểm lấy mẫu: nước thải có giá trị pH thấp, hàm lượng chất rắn lơ lửng (TSS), sắt tổng (Fe), mangan (Mn) và dầu mỡ khoáng cao, hầu hết đều vượt giới hạn cho phép được quy định trong cột B của QCVN 40:2011/BTNMT đối với chất lượng nước thải công nghiệp. Hàm lượng các kim loại nặng và Coliform trong nước thải vẫn nằm trong ngưỡng giới hạn cho phép được quy định ở cột B của QCVN 40:2011/BTNMT về chất lượng nước thải công nghiệp trước khi thải vào môi trường.
1. Mở đầu
Hàng ngày, các mỏ than hầm lò trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh đưa vào môi trường hàng nghìn m3 nước thải gây ô nhiễm nghiêm trọng nguồn nước tiếp nhận. Để lựa chọn được giải pháp xử lý phù hợp, đáp ứng được với điều kiện thực tế của mỏ thì cần có những đánh giá chi tiết về chất lượng nước thải từng mỏ. Trên cơ sở thực tiễn đó, tác giả đã thực hiện đánh giá chất lượng nước thải sản xuất của năm mỏ hầm lò, trong đó có ba mỏ thuộc Tổng Công ty Than Đông Bắc là của Công ty TNHH MTV 35 (Quang Hanh), mỏ than của Công ty TNHH MTV 618 (Đông Triều) và mỏ than của Công ty TNHH MTV 790 (Mông Dương) và hai mỏ thuộc TKV là: Công ty TNHH MTV Than Uông Bí và Công ty Cổ phần Than Hà Lầm (Hạ Long) với tần suất lấy mẫu là ba tháng/lần trong giai đoạn từ tháng 11/2019 đến tháng 08/2020 để làm cơ sở đề xuất các giải pháp xử lý nước thải.

2. Phương pháp nghiên cứu
Tác giả thực hiện đánh giá khảo sát trực tiếp và lấy mẫu theo các vị trí đã định, thực hiện lấy mẫu lặp lại tại các thời điểm mùa khô mùa mưa khác nhau để phân tích và so sánh kết luận.
Kết quả phân tích được thực hiện tại hai phòng thí nghiệm là Sở KHCN Quảng Ninh và Viện Kỹ thuật và Công nghệ Môi Trường.
3. Kết quả nghiên cứu và thảo luận
Kết quả phân tích các mẫu nước thải chưa qua xử lý được lấy tại cửa lò của năm đơn vị hầm lò trong đó có ba đơn vị thuộc Tổng Công ty Than Đông Bắc, Công ty Than Uông Bí và Công ty Cổ phần Than Hà Lầm trong giai đoạn từ tháng 11/2019 đến tháng 08/2020 cho thấy:
Giá trị pH: dao động trong khoảng từ 3,4 ÷ 5,3 thấp hơn giới hạn cho phép từ 1,61 ÷ 1,69 lần, tùy thuộc vào từng mỏ và từng thời điểm lấy mẫu;
Hàm lượng TSS: dao động trong khoảng từ 490 ÷ 845 mg/l, vượt giới hạn cho phép từ 4,9 ÷ 8,45 lần;
Kim loại: hầu hết các mẫu đều có hàm lượng Fe và Mn cao, xấp xỉ hoặc vượt giới hạn cho phép, trong đó hàm lượng Fe dao động trong khoảng từ từ 4,32 ÷ 12,7 mg/l, vượt giới hạn cho phép tối đa là 2,54 lần; còn hàm lượng Mn dao động trong khoảng từ 1,08 ÷ 6,3 mg/l, vượt giới hạn cho phép từ 1,08 ÷ 6,3 lần;
Kim loại nặng: hàm lượng các kim loại nặng trong nước thải của cả năm mỏ được khảo sát đều nằm trong ngưỡng giới hạn cho phép. Các kim loại nặng có độc tính cao như As, Cd, Hg không phát hiện thấy trong quá trình phân tích mẫu nước thải tại cả bốn lần lấy mẫu. Điều đó cho thấy nước thải của các mỏ được khảo sát chưa bị ô nhiễm kim loại nặng;
Dầu mỡ khoáng: có giá trị từ trung bình đến cao, dao động trong khoảng từ 5,62 ÷ 15,1 mg/l; vượt giới hạn cho phép tối đa là 1,51 lần;
Các chất hữu cơ: tất cả các mẫu nước thải đều có giá trị BOD5, Amoni và tổng photpho thấp hơn giới hạn cho phép được quy định tại cột B của QCVN 40:2011/BTNMT. Riêng hàm lượng COD trong nước thải của ba mỏ của Tổng Công ty than Đông Bắc, Công ty than Uông Bí - TKV tại một số thời điểm có giá trị vượt so với giới hạn cho phép từ 1,04 ÷ 1,8 lần;

Chỉ tiêu vi sinh: hàm lượng Coliform trong các mẫu đều nằm trong giới hạn cho phép được quy định tại cột B của QCVN 40:2011/BTNMT về chất lượng nước thải công nghiệp. Điều này có thể khẳng định nước thải của các mỏ được khảo sát chưa bị ô nhiễm vi sinh vật.
Tuy nhiên, mức độ ô nhiễm tại các mỏ là không giống nhau, mức độ ô nhiễm tại các lần lấy mẫu cũng có sự thay đổi phản ánh sự biến đổi theo mùa và theo khu vực. Cụ thể như sau:
Hầu hết các mỏ đều có giá trị pH thấp hơn vào hai đợt lấy mẫu trong mùa khô (01/11/2019 và 01/02/2020), giá trị pH trong nước thải của hai đợt lấy mẫu vào mùa mưa (02/05/2020 và 02/08/2020) có xu hướng cao hơn, nguyên nhân chủ yếu là do nước mưa đã pha loãng làm giảm bớt tính axit của nước thải mỏ. Trong năm mỏ được nghiên cứu thì giá trị pH của mỏ 618 là thấp nhất và sự biến động theo thời gian lấy mẫu cũng ít nhất, chỉ từ 3,4 ÷ 4,7. Nước thải của Công ty than Uông Bí - TKV có giá trị trung bình cao nhất, dao động từ 4,1 ÷ 5,3. Sự biến động của giá trị pH theo thời gian lấy mẫu được phản ánh rõ nhất trong nước thải của mỏ 790 với Công ty Cổ phần Than Hà Lầm khoảng dao động từ 3,7 ÷ 5,2.
Hàm lượng TSS trong nước thải của hầu hết các mỏ đều cao hơn vào hai đợt lấy mẫu trong mùa khô (01/11/2019 và 01/02/2020), giá trị TSS trong nước thải của hai đợt lấy mẫu vào mùa mưa (02/05/2020 và 02/08/2020) có xu hướng thấp hơn, nguyên nhân chủ yếu là do nước mưa đã pha loãng làm giảm bớt nồng độ các chất ô nhiễm có trong nước thải mỏ. Trong năm mỏ được nghiên cứu thì giá trị TSS của mỏ Hà Lầm là thấp nhất và sự biến động theo thời gian lấy mẫu cũng ít nhất, chỉ từ 500 ÷ 690 mg/l. Nước thải của mỏ 35 có giá trị TSS trung bình cả bốn đợt lấy mẫu cao nhất, dao động từ 575 ÷ 833 mg/l. Sự biến động của giá trị TSS theo thời gian lấy mẫu được phản ánh rõ nhất trong nước thải của mỏ 618 với hàm lượng TSS trong nước thải vào mùa khô cao gấp 1,69 lần so với mùa mưa. Riêng mẫu nước thải của mỏ 790, sự biến động của hàm lượng TSS lại có xu hướng trái ngược với các mỏ còn lại, mùa khô hàm lượng TSS trong nước thải lại thấp hơn so với mùa mưa. Có hai nguyên nhân dẫn đến hiện tượng này: một phần là do công suất khai thác của mỏ 790 trong thời gian từ tháng 11/2019 đến tháng 02/2020 lớn hơn so với thời gian nghiên cứu còn lại, phần nữa là do mỏ đang xây dựng hệ thống xử lý nước thải làm gia tăng lượng cặn do nước mưa cuốn trôi từ bề mặt khu mỏ vào hệ thống thoát nước.
Hàm lượng Fe trong tất cả các mẫu được lấy vào hai đợt lấy mẫu trong mùa khô (01/11/2019 và 01/02/2020) đều cao hơn giá trị Fe trong nước thải của hai đợt lấy mẫu vào mùa mưa (02/05/2020 và 02/08/2020), nguyên nhân chủ yếu là do nước mưa đã pha loãng làm giảm bớt tính axit của nước thải mỏ do đó hàm lượng Fe hòa tan trong nước thải cũng giảm. Trong năm mỏ được nghiên cứu thì giá trị Fe trong nước thải của mỏ 618 là cao nhất dao động trong khoảng từ 7,24 ÷ 10,63 mg/l (hàm lượng Fe trong nước thải vào mùa khô cao gấp 1,46 vào mùa mưa). Mỏ Hà Lầm có sự biến động hàm lượng Fe theo thời gian lấy mẫu lớn nhất khoảng từ 4,9 ÷ 12,7 mg/l. Hàm lượng Fe trong nước thải của mỏ 790 có sự dao động theo mùa thấp nhất, dao động từ 5,15 ÷ 8,51 mg/l (hàm lượng Fe trong nước thải vào mùa khô cao gấp 1,65 mùa mưa).
Hàm lượng Mn trong tất cả các mẫu được lấy vào hai đợt lấy mẫu trong mùa khô (01/11/2019 và 01/02/2020) đều cao hơn giá trị Mn của hai đợt lấy mẫu vào mùa mưa (02/05/2020 và 02/08/2020), nguyên nhân chủ yếu là do nước mưa đã pha loãng làm giảm bớt tính axit của nước thải mỏ do đó hàm lượng Mn hòa tan trong nước thải cũng giảm. Trong năm mỏ được nghiên cứu thì giá trị Mn trong nước thải của mỏ 618 là cao nhất và trong mỏ Hà Lầm là thấp nhất. Sự biến động của hàm lượng Mn trong nước thải theo mùa của mỏ 790 là lớn nhất, dao động trong khoảng từ 1,18 ÷ 5,42 mg/l (hàm lượng Mn trong nước thải vào mùa khô cao gấp 4,6 vào mùa mưa). Hàm lượng Mn trong nước thải của mỏ 618 có sự dao động theo mùa thấp nhất, dao động từ 4,2 ÷ 6,3 mg/l (hàm lượng Mn trong nước thải vào mùa khô cao gấp 1,5 vào mùa mưa).
Hàm lượng dầu mỡ khoáng trong nước thải của bốn trên năm mỏ được nghiên cứu vượt giới hạn cho phép, quy định tại cột B của QCVN 40:2011/BTNMT. Tất cả các mẫu của hai đợt lấy mẫu trong mùa khô (01/11/2019 và 01/02/2020) đều có hàm lượng dầu mỡ khoáng cao hơn so với hai đợt lấy mẫu vào mùa mưa (02/05/2020 và 02/08/2020), nguyên nhân chủ yếu là do nước mưa đã pha loãng làm giảm bớt hàm lượng dầu mỡ khoáng trong nước thải. Trong năm mỏ được nghiên cứu thì hàm lượng dầu mỡ khoáng trong nước thải của mỏ 790 là cao nhất và trong mỏ 35 là thấp nhất. Sự biến động của hàm lượng dầu mỡ khoáng trong nước thải theo mùa của mỏ Hà Lầm là lớn nhất, dao động trong khoảng từ 7,8 ÷ 15,1 mg/l (hàm lượng dầu mỡ khoáng trong nước thải vào mùa khô cao gấp 1,93 vào mùa mưa). Hàm lượng dầu mỡ khoáng trong nước thải của mỏ 618 có sự dao động theo mùa thấp nhất, dao động từ 9,0 ÷ 14,3 mg/l (hàm lượng dầu mỡ khoáng trong nước thải vào mùa khô cao gấp 1,58 vào mùa mưa).
Một số mẫu nước thải trước xử lý của các mỏ 35, 618 và 790 tại một số thời điểm có hàm lượng COD vượt giới hạn cho phép được quy định tại cột B của QCVN 40:2011/BTNMT. Tất cả các mẫu của hai đợt lấy mẫu trong mùa khô (01/11/2019 và 01/02/2020) đều có hàm lượng COD cao hơn so với hai đợt lấy mẫu vào mùa mưa (02/05/2020 và 02/08/2020), nguyên nhân chủ yếu là do nước mưa đã pha loãng làm giảm bớt hàm lượng COD trong nước thải. Trong năm mỏ được nghiên cứu thì hàm lượng COD trong nước thải của mỏ 618 là cao nhất và trong mỏ Hà Lầm là thấp nhất. Sự biến động của hàm lượng COD trong nước thải theo mùa của mỏ 790 là lớn nhất, dao động trong khoảng từ 78,6 ÷ 285 mg/l (hàm lượng COD trong nước thải vào mùa khô cao gấp 3,6 vào mùa mưa). Hàm lượng COD trong nước thải của mỏ Hà Lầm có sự dao động theo mùa cũng là thấp nhất trong năm mỏ nghiên cứu, dao động từ 75,9 ÷ 102,4 mg/l (hàm lượng COD trong nước thải vào mùa khô cao gấp 1,35 vào mùa mưa).
Ngoài ra, nước thải trước xử lý của Mỏ than Hà Lầm thuộc Hạ Long, Quảng Ninh đã có hiện tượng bị nhiễm muối (nhiễm mặn), hàm lượng clorua tính theo NaCl rất cao, dao động ở mức 5 - 6 phần nghìn do điều kiện khai thác xuống sâu vùng giáp biển. Với mức ô nhiễm này hoàn toàn gây ăn mòn thiết bị, hỏng các thiết bị máy móc xử lý nước và đặc biệt ăn mòn thiết bị khi sử dụng vào mục đích tuần hoàn lại cấp cho sinh hoạt.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Báo cáo quan trắc môi trường của TKV 2020.
Kết quả kiểm định chất lượng nước thải HLMT - Trung tâm ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, Sở KHCN tỉnh Quảng Ninh.
Kết quả kiểm định chất lượng nước thải HLMT - Viện Kỹ thuật và Công nghệ môi trường.
Trịnh Xuân Lai (2002). Cấp nước. Tập 2: Xử lý nước. Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.
Trần Hiếu Nhuệ (1998). Thoát nước và xử lý nước thải công nghiệp. Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật.
Tập đoàn công nghiệp than và khoáng sản Việt Nam - TKV (2010). Quy hoạch phát triển than vùng Cẩm Phả đến năm 2020, có xét triển vọng đến năm 2030.
Tập đoàn công nghiệp than và khoáng sản Việt Nam - TKV (2010). Quy hoạch phát triển than vùng Hòn Gai đến năm 2020, có xét triển vọng đến năm 2030.
Người đọc phản biện: PGS.Ts. Trịnh Lê Hùng - Đại học KHTN, Đại học QG Hà Nội.
ThS. Đặng Xuân Thường, PGS. TS. Đỗ Thị Lan
NCS khoa Môi trường - Đại học NLTN, Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên
Nhà máy nước Thủ Đức: gần sáu thập kỷ cung cấp nước sạch cho Thành phố Hồ Chí Minh
Đồng Nai tăng tốc hoàn thiện hệ thống nước sạch nông thôn đến năm 2030
Trao giải Đồ án xuất sắc sinh viên ngành Nước năm 2025 khu vực miền Bắc
Đại hội Chi hội Cấp Thoát nước miền Bắc nhiệm kỳ 2025 - 2028: Đoàn kết - Đổi mới - Chia sẻ - Phát triển
Nước và tương lai xanh: Chuyển đổi số thúc đẩy ngành nước phát triển an toàn, thông minh và bền vững
Đề xuất khung pháp lý mới cho ngành Cấp Thoát nước: Tăng liên kết vùng, giảm ngập úng, nâng cao chất lượng dịch vụ
Đọc thêm
Ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong hệ thống cấp nước tại Việt Nam: Cơ hội và thách thức
Bài viết giới thiệu tổng quan về các kỹ thuật AI phổ biến đã được thực hiện trong các tác vụ khác nhau và tiềm năng ứng dụng trong quản lý nguồn nước cấp tại Việt Nam, cũng như thảo luận về những thách thức và giải pháp để triển khai công nghệ này một cách hiệu quả.
Bổ cập nước cho Hồ Tây từ nguồn Nhà máy Xử lý nước thải Hồ Tây qua bãi lọc ngập nước
Qua nhiều năm, chất lượng nước Hồ Tây có dấu hiệu suy giảm, một số chỉ số môi trường vượt giới hạn cho phép, đặc biệt trong mùa khô. Do đó, nhu cầu bổ cập nước cho Hồ Tây vào mùa khô nhằm cải thiện chất lượng nước là cần thiết và cấp bách.
Ngành Kỹ thuật Cấp thoát nước Trường Đại học Xây dựng Hà Nội: Đồ án tốt nghiệp gắn với thực tiễn
Trong hai ngày 23 và 24/11/2025, Trường Đại học Xây dựng Hà Nội (ĐHXDHN) phối hợp với Trường Đại học Kinh tế - Kỹ thuật Bình Dương và Công ty CP - Tổng công ty Nước - Môi trường Bình Dương (BIWASE) đã tổ chức thành công Lễ bảo vệ đồ án tốt nghiệp cho 39 sinh viên ngành Kỹ thuật Cấp thoát nước.
Đại học Trà Vinh đưa nước sạch đến từng mái nhà miền mặn
Năm 2025, câu chuyện nước sạch ở Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) tiếp tục đặt ra thách thức lớn khi xâm nhập mặn, hạn hán và suy giảm nguồn nước ngầm diễn ra sâu và kéo dài, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của hàng chục nghìn hộ dân.
Nghiên cứu sự ảnh hưởng của thủy triều đến chất lượng nước sông Sài Gòn bằng phương pháp phân tích thống kê
Nghiên cứu này khảo sát ảnh hưởng của dao động thủy triều trong chế độ bán nhật triều đến các thông số chất lượng nước trên sông Sài Gòn bằng cách sử dụng dữ liệu lấy mẫu 24 giờ.
Phục hồi dòng chảy môi trường cho các sông nội đô thành phố Hà Nội
Các sông nội đô là sông Tô Lịch, sông Kim Ngưu, sông Lừ và sông Sét gắn liền với lịch sử phát triển trên 1000 năm của Hà Nội, có ý nghĩa lớn về văn hóa, lịch sử và tâm linh của Thủ đô. Tuy nhiên sự phát triển đô thị đã làm cho nước bị ô nhiễm nặng, khả năng tiêu thoát nước mưa của các sông giảm sút,...
Những Người thầy ngành Nước: Sứ mệnh thầm lặng vì cộng đồng và môi trường
Trước thách thức từ biến đổi khí hậu, đô thị hóa và ô nhiễm môi trường, kỹ sư Cấp Thoát nước đóng vai trò then chốt trong bảo vệ nguồn nước. Phía sau họ là những giảng viên âm thầm truyền đạt tri thức, khơi dậy tinh thần trách nhiệm và nuôi dưỡng đam mê nghề nghiệp cho thế hệ kế tiếp.
KTS Trần Ngọc Chính: “Đã đến lúc đô thị Việt Nam bước lên bản đồ thế giới bằng trí tuệ và công nghệ của mình"
Theo KTS. Trần Ngọc Chính, Chủ tịch Hội Quy hoạch phát triển đô thị Việt Nam, nguyên Thứ trưởng Bộ Xây dựng, sự góp mặt của đại đô thị biển Vinhomes Green Paradise Cần Giờ trong cuộc bình chọn toàn cầu “7 Kỳ quan đô thị tương lai” thể hiện sự trưởng thành của tư duy quy hoạch quốc gia và tầm vóc quốc tế của doanh nghiệp Việt.
Sinh viên ngành Kỹ thuật Cấp Thoát nước Trường ĐH Xây Dựng Hà Nội trải nghiệm thực tế ngay từ năm thứ nhất
Đầu tháng 11/2025, các thầy cô Nhóm chuyên môn Cấp thoát nước, Khoa Kỹ thuật Môi trường, Trường ĐH Xây dựng Hà Nội đã tổ chức chuyến tham quan, học tập thực tế cho hơn 150 sinh viên ngành Kỹ thuật Cấp thoát nước (Khóa 66-70) tại Nhà máy Dệt nhuộm Pacific Crystal Hải Dương và Công ty CP Kinh doanh Nước sạch Hải Dương.